CHƯƠNG 1
Pha Dẫn Chiều Kích
Với
chìa khóa thiên đàng của nó, Những dây không khí, những phím của lửa
Cây
đàn Lyre âm giai tự nhiên vĩ đại của người Samos Nổi lên xuyên suốt toàn thanh nhịp gấp bảy của nó Từ Trái Đất hướng đến những ngôi sao
bất biến.
—— Longfellow
về Lyra từ Sự Che Khuất của Orion
Tất cả ý thức và năng lượng đã từng được hợp nhập thành một toàn thể hoàn chỉnh. Toàn Thể này đã nhận thức được các khía cạnh của chính nó, nhưng theo một cách khác với ý thức cá nhân. Trong sự phát triển hiện tại của Trái Đất, cái tôi được công nhận đầu tiên, sau đó là xã hội, và cuối cùng là Toàn Thể, Toàn Tồn Tại, hoặc Thượng Đế. Sự tách biệt vẫn được tạo ra. Sự tách biệt khỏi Nguồn này là một ảo giác. Ảo giác này là một công cụ cung cấp cho Toàn Thể toàn bộ những bài học và thách thức thiết yếu mà nó cần trải nghiệm để tái hợp nhập trở lại Nguồn.
Trước khi có sự phân mảnh từ Nguồn này, Toàn Thể đã tồn tại trong một quãng tám khác của thực tại chiều kích. Từ cõi giới của sự thống nhất này, các phần của Toàn Tồn Tại tự hỏi sẽ như thế nào nếu nó chia nhỏ và tạm quên sự tồn tại hợp nhập. Sức mạnh của ý nghĩ này trên một tầng thứ khối như vậy đã bắt đầu tạo ra một sự phân mảnh. Ảo giác tạo ra từ sự phân mảnh này sẽ là một sự quên lãng đầy thách thức mà trong đó ý thức cần sáng tạo (từ bản tính thần thánh của chính nó) sự hồi tưởng để thống nhất một lần nữa.
Cái được gọi là “sự sáng tạo” thực chất là sự phân mảnh này, hoặc có tính mô tả hơn, là Pha Dẫn Chiều Kích. Sự tò mò ban đầu của Toàn Thể về một sự tồn tại phân mảnh thực chất đã tạo ra thực tại của nó. Nó đòi hỏi một sự chuyển đổi trong quan điểm, tiêu điểm, hay tần số. Là một phần của Toàn Thể, các khía cạnh của Gia Đình Thiên Hà đã chịu trách nhiệm phần nào trong việc đưa ra bản thiết kế để dẫn dắt sự phát triển của họ. Do đó, tuyên bố “chúng ta là Thượng Đế” thực sự có ý nghĩa khả thi.
Bản thiết kế đã được trình bày chứa nhiều ý tưởng khác nhau. Trước hết, nó cho rằng sự phân cực và phân mảnh sẽ là chuẩn. Việc mã hóa trong bản thiết kế cung cấp tùy chọn Tự Do Ý Chí trên phần của mỗi mảnh hoặc linh hồn. Thách thức chính là nhớ rằng mỗi ý thức đều sở hữu nó. Tự Do Ý Chí càng được sử dụng nhiều bao nhiêu, thì ký ức thần thánh càng được thỉnh nguyện nhiều bấy nhiêu. Khi đối mặt một thực tại phân cực, Tự Do Ý Chí trở thành người giải phóng.
Khi một linh hồn quên rằng nó có Tự Do Ý Chí, những bài học trở nên nhiều thách thức hơn, nhưng phần thưởng cũng sẽ cao hơn.
Một ý tưởng khác trong bản thiết kế được lựa chọn này là các mảnh của Toàn Thể sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành động của chúng trong giai đoạn mất trí nhớ này. Mọi hành động được thực hiện sẽ tạo ra phản ứng từ vũ trụ bất kể nó có được ghi nhớ hay không. Một số người gọi đó là nghiệp; tuy nhiên, nó còn là nhiều hơn “mắt đền mắt, mạng đền mạng”. Luôn có khả năng mở rộng nhận thức của một người thay cho những hình phạt đối với hành vi tiêu cực. Vì vậy, trong một ý nghĩa nào đó, trí tuệ xóa đi nghiệp lực.
Dù điều này có vẻ giống như các quy tắc cho một số loại trò chơi vũ trụ tàn nhẫn, nhưng kết quả đã được quyết định. Với điều này trong tâm trí, điểm đến cuối cùng không quan trọng mà chính là cuộc hành trình xuyên suốt chặng đường. Đó là nghĩa đen của cách mà trò chơi được chơi.
Một bản thiết kế được chấp nhận khác là một mã tạo ra theo cách ether được xây dựng vào trong kết cấu của tấm thảm phổ quát. Đoạn mã này sẽ cho phép các hình thể hình người đi bằng hai chân dựa trên carbon làm phương tiện phát triển tự nhiên bình thường cho việc nhập thể của ý thức kiểu người vào cấu trúc của hành tinh. Mã này tồn tại trên các tầng thứ siêu nguyên tử mà khoa học mới bắt đầu học cách đo lường. Biểu tượng của sự phân cực diễn ra trong hình thể cơ thể con người. Con người Trái Đất là đối xứng, với hai tay, hai chân, hai mắt, hai tai… Thân thể được một thân và một đầu hợp thành một toàn thể.
Trong suốt quá trình phát triển tiến hóa của các hình thể hình người (trong gia đình thiên hà của Trái Đất) cũng được quyết định rằng các cực nam và cực nữ sẽ thể hiện trong các loại cơ thể riêng biệt mà bù trừ. Đây là một lời nhắc nhở rằng để sáng tạo, các cực phải luôn được gia nhập hoặc hợp nhập. Khái niệm này được nắm bắt rộng rãi bằng việc một cá nhân có khuynh hướng cảm thấy “là Một” nhất khi họ gia nhập với người khác trong tình yêu.
Quá trình Pha Dẫn Chiều Kích thực chất là gì? Trong kết cấu thời gian/không gian của chòm sao Lyra có tồn tại một thứ có thể gọi là lỗ trắng (1).
[(1) Một trọng điểm của năng lượng và ánh sáng mạnh mẽ. Trong trường hợp này là một nơi sinh.]
So sánh lỗ trắng này với một lăng kính, khi chiếu một chùm ánh sáng qua lăng kính, sẽ nhận được một quang phổ ánh sáng phân thành bảy tần số màu sắc có thể nhìn thấy được. Khi một phần của Toàn Thể đi qua Lăng kính của Lyra (lỗ trắng), ý thức được phân mảnh thành bảy tần số rung động, tượng trưng cho ý thức khối của gia đình thiên hà của Trái Đất. Mỗi mảnh trở nên ý thức trên tất cả các tần số hoặc mật độ khác nhau kia. Tần số được trải nghiệm trước đây được hợp nhập vào Toàn Thể (như ánh sáng trắng). Khi phần này của Toàn Thể đi qua lăng kính, nó thể hiện như bảy tần số nhận thức. Ý thức cũng phân mảnh, và những mảnh vỡ đã di chuyển “xa ra” như thuyết “Big Bang” gợi ý. Vậy là, ảo giác vì thế phát sinh, rằng mỗi mảnh đều rất rất đơn độc.
Toàn Thể hiểu rằng mục đích của trải nghiệm này là học để tái hợp nhập từ một điểm tách biệt.
Nhưng bằng cách nào? Là những linh hồn cá nhân hoặc theo nhóm, các phân mảnh đã tìm ra vũ trụ vừa được tạo ra. Pha Dẫn Chiều Kích không chỉ tạo ra sự phân mảnh ý thức, mà nó còn tạo ra các ngôi sao, hành tinh, khí gas và các phân tử tạo nên thực tại vật lý. Tuy nhiên, thực tại vật lý chỉ đại diện cho một vài tần số năng lượng xuất hiện từ sự phân mảnh.
Như khoa học đã phát hiện, vật chất là năng lượng được đặc hóa rung động ở một mức cụ thể. Mọi khía cạnh của vũ trụ đều được tạo thành từ năng lượng. Công nghệ Trái Đất vẫn chưa khám phá ra phương pháp đo lường những phần nhất định của thực tại. Nếu công nghệ có khả năng này, vô số cổng vào thời gian, không gian và chiều kích sẽ được nhìn thấy. Trong thời gian đó, bảy tầng thứ tần số mà gia đình thiên hà của Trái Đất phân mảnh thành bằng cách đi qua Lăng kính của Lyra sẽ được khám phá dưới đây. Từ thời điểm này, thuật ngữ “mật độ” sẽ được sử dụng để tham chiếu các tầng thứ tần số này. (2)
[(2) Xem Bảng Thuật Ngữ để biết sự khác biệt giữa “mật độ” và “chiều kích”.]
MẬT ĐỘ MỘT: Nhận thức như một điểm; Vật chất vật lý. Tầng thứ tần số này là cơ bản nhất. Nó cung cấp vật chất và năng lượng cho việc tạo ra các nguyên tử và phân tử. Ví dụ, tất cả các dạng sống cơ bản của khoáng chất và nước đều hoạt động từ tần số mật độ một. Con người cũng có tần số này trong bản thân họ. Nó tạo ra các mã di truyền cơ bản.
MẬT ĐỘ HAI: Nhận thức như một đường thẳng; Vật chất sinh học; Phát triển bản sắc nhóm hoặc loài.
Ý thức thể hiện bởi rung động mật độ hai không có nhận thức bản thân (hay bản ngã). Hầu hết các loài trong vương quốc động thực vật đều tồn tại ở đây; tuy nhiên, vị trí của chúng trong mật độ phụ thuộc vào nhiều yếu tố bổ sung, trong đó có sự hiện diện hoặc không hiện diện của bản ngã.
MẬT ĐỘ BA: Nhận thức thể tích; Bản ngã; Mất bản sắc nhóm, phát triển bản sắc cá nhân; Khả năng nhớ quá khứ và nhận thức được tương lai trong khi vẫn giữ được nhận thức hiện tại.
Đây là mật độ nơi con người xuất hiện. Nó là một rung động tạo ra ảo giác về sự tách biệt, do đó là một thách thức đối với sự thức tỉnh. Hiện nay nhân loại đang trải qua giai đoạn chuyển đổi sang thực tại mật độ bốn, điều này có thể giải thích cho những thay đổi chóng vánh mà nhân loại đang trải qua. Đây là tần số thể hiện sự tách rời nhất với Toàn Thể. Chính từ đây đã học được rất nhiều bài học về hợp nhập. Đây là tầng thứ mãnh liệt nhất trong tất cả các tầng thứ về bồi dưỡng sự tăng trưởng bên trong Cái Tôi của nó.
Động vật biển có vú (cá heo và cá voi) hiện đang tồn tại đồng thời ở mật độ ba và bốn, cũng đang chuyển khỏi mật độ ba cùng nhân loại. Ý thức của động vật linh trưởng cũng tồn tại ở mật độ ba. Sự tiến hóa của loài linh trưởng đang ngày càng trở nên rõ ràng, khi chúng ta bắt đầu quan sát chúng biểu hiện một vài đặc điểm mà trước kia chỉ có ở người (chẳng hạn như việc hấp thụ ngôn ngữ và hành vi bệnh lý).
MẬT ĐỘ BỐN: Đóng khuôn nhận thức về thể tích; Siêu nhận thức; Tái hợp nhập bản sắc nhóm mà không làm mất bản sắc bản ngã; Khi rung động tăng lên, nhận thức về quá khứ, hiện tại và tương lai trở nên lưu động hơn cùng với khả năng giao tiếp với các thực tại đa chiều kích và đa mật độ; Ý thức định hướng tiêu cực trở nên khó duy trì hơn.
Trên Trái Đất hiện giờ, thực tại mật độ bốn là chồng chập với mật độ ba. Trong trường hợp của con người, điều này có thể giải thích cho sự mong muốn tăng lên đối với sự hiệp nhất, hòa bình, và tình yêu vô điều kiện trái ngược với ảo giác về sự tách biệt đặc trưng mật độ ba. Mức rung động của thực tại của một người được đẩy lên, do đó người ta có thể phải đối mặt với các vấn đề cá nhân một cách nhanh chóng và dữ dội hơn. Dễ thấy kết quả của việc này là như thế nào với hàng ngàn cá nhân trên Trái Đất đang trong trị liệu, trong các chương trình lạm dụng thuốc và tham gia vào các nỗ lực nhân đạo để giúp hành tinh tốt hơn. Đây là tần số của trách nhiệm. Đây là tần số khi người ta bắt đầu nhớ lại mã hoá của Tự Do Ý Chí. Đây là tần số cuối cùng nơi cơ thể vật lý là phương tiện để biểu hiện ý thức. Do đó, nhiều nền văn minh lựa chọn dành một thời gian dài trong mật độ này.
MẬT ĐỘ NĂM: Nhận thức trải nghiệm về “Tôi” như một bản sắc nhóm; Không bị ràng buộc bởi thời gian tuyến tính.
Trong mật độ này ý thức cảm nhận bắt đầu thức tỉnh về di sản của nó. Đây là mật độ trí tuệ. Khi người ta đánh thức trí tuệ bên trong, họ thường muốn chia sẻ nó với những người vẫn tập trung vào mật độ thấp hơn. Nhiều người từ cõi giới này lựa chọn trở thành người hướng dẫn cho người khác. Một sinh mệnh mật độ năm sáp nhập với gia đình ý thức của nó (“siêu linh hồn” hoặc “bản thân cao hơn” nếu bạn muốn nói) và bắt đầu nhớ lại. Đây là mật độ đầu tiên mà trong đó một định hướng phi vật lý được trải nghiệm.
(Lưu ý: Không có sự phân biệt rõ ràng khi chuyển mật độ từ năm đến sáu và sáu đến bảy vì những mật độ này không định hướng về vật lý, có nhiều sự pha trộn trong những chuyển tiếp này.)
MẬT ĐỘ SÁU: Nhận thức như chiều kích chính nó. Đây thường được gọi là “Ý thức Christ”, trong đó nó hiển thị một tầng thứ tần số tương đương với của Chúa hay Phật. Từ tần số này, một sự hồi tưởng hoàn toàn xảy ra, và người ta bắt đầu chịu trách nhiệm đối với Toàn Thể hơn là Cái Tôi. Quá trình tiến triển Cái Tôi và tiến triển Toàn Thể trở thành một và giống nhau.
MẬT ĐỘ BẢY: Nhận thức như là trải nghiệm đa chiều; Bản sắc ma trận nhóm (Phức hợp ký ức xã hội).
Đây là tần số của sự thống nhất toàn Nhất Thể hoặc hợp nhập. Những người rung động đến tần số này được hợp nhập trong bản sắc và trở thành một toàn thể có ý thức khối. Họ thu hút những người ở các tần số khác và cung cấp lưu động cho dòng chảy tự nhiên tiến đến hợp nhập. Một khi các sinh mệnh mật độ bảy đạt được khối lượng tới hạn, họ sẽ tiến triển xuyên qua Lăng kính của Lyra (từ quan điểm của chúng ta, nó sẽ là điểm ra lỗ đen) và đạt đến quãng tám tiếp theo, nơi mà một cuộc phiêu lưu khác đang chờ đợi.
Điều quan trọng cần lưu ý là khi các phần của Toàn Thể được phân mảnh thông qua Lăng kính của Lyra, mỗi ý thức vẫn giữ được sự nhận thức trên mọi tầng thứ mật độ. Tuy nhiên, một phần của sự quên lãng vẫn còn ở đó. Từ mật độ đậm đặc cao nhất (như ba và một bộ phận của bốn), một sự vô nhận thức có thể xảy ra liên quan đến sự cùng tồn tại của các tầng thứ khác.
Khi hợp nhập diễn ra, người ta nhận thức được những khía cạnh khác. Vi mô luôn luôn phản ánh vĩ mô. Điều này được nhìn thấy trong “sự trùng hợp ngẫu nhiên” về cái cách mà cấu trúc nguyên tử phản ánh cấu trúc của một hệ mặt trời. Nó cũng giống với sự phân mảnh các phần của Toàn Thể thành các sinh mệnh cá thể hoặc các nhóm linh hồn. Khi một người nhập thể vào thân thể vật lý, nó có thể được so sánh với đi qua Lăng kính của Lyra phiên bản thu nhỏ.
Quá trình phân mảnh linh hồn thành hiện thân vật lý phần nào có thể được so sánh với các lý thuyết xung động bản năng, bản ngã, và siêu ngã của Freud. Như một bào thai, linh hồn thể hiện ý thức mật độ một. Tại điểm đó, người ta nhận thức được chính nó như một kết nối phức tạp với môi trường. Về mặt vật lý, một là một khối của những mã DNA với tiềm năng trở thành một sinh mệnh con người có ý thức. Vì Freud không đưa giả thuyết của mình vào quá trình phát triển trước khi sinh, nên không có tương quan. Nếu ông ta tạo ra một nhãn dán miêu tả mối quan hệ của bào thai với môi trường, thì đó sẽ là mô tả mật độ đầu tiên.
Khi đứa trẻ ở trong khoảng thời gian từ sơ sinh đến hai tuổi, nó bắt đầu biểu lộ ý thức mật độ hai, bắt đầu nhận thức sự tách biệt giữa bản thân và môi trường, và những ham muốn của nó dần được giải phóng. Vẫn còn một phần của quan điểm vị kỷ tương quan ở cấp độ phát triển này với xung động bản năng. Cái phân biệt định hướng mật độ hai với mật độ ba của đứa trẻ là thiếu một khả năng riêng biệt để phân biệt giữa bản thân và môi trường.
Từ khoảng hai tuổi trở đi, ý thức mật độ ba trở thành khung cơ bản được biểu lộ. Đây là sự phát triển của bản ngã và nhận thức của đứa trẻ như là một cá nhân tách biệt. Đây là những năm định hình quan trọng; người ta có thể thấy rằng nếu sự phát triển bị gián đoạn (chẳng hạn bởi sự lạm dụng) thì nhân cách có thể phân mảnh và tạo ra sự rối loạn trong cuộc sống sau này. Nhiều cá nhân duy trì định hướng ý thức mật độ ba này của bản ngã trong cả cuộc đời của họ.
Sự phát triển của siêu ngã hay nhận thức cao hơn là một đặc tính mật độ bốn điển hình. Con người có tùy chọn để phát triển khía cạnh này của bản thân họ. Đây là sự tái hợp nhập của sự phân mảnh nhân cách —— cái đã xảy ra thông qua quá trình sinh ra —— cũng như hợp nhập vào tầng thứ tinh thần. Khi nhân loại bắt đầu dịch chuyển mạnh mẽ hơn vào trong ý thức mật độ bốn, người ta ngờ rằng quá trình phân mảnh nhân cách này sẽ trở nên ít rõ ràng và có lẽ trẻ em sẽ bắt đầu biểu hiện các đặc tính mật độ bốn trong quá trình phát triển của chúng và duy trì trong suốt cuộc đời.
Trong thời thơ ấu, người ta phải học cách thích ứng và hợp nhập vào một khuôn khổ khả thi.
Nếu không thể làm được điều này (chẳng hạn như trường hợp trẻ em bị lạm dụng) rối loạn tâm lý sẽ thường được biểu hiện khi đạt đến tuổi trưởng thành. Các bệnh lý như Rối Loạn Đa Nhân Cách có thể xảy ra do quá trình hợp nhập nhân cách mật độ ba một cách tự nhiên đã không diễn ra trong thời thơ ấu. Một số nền văn minh ngoài Trái Đất đã học cách phát hiện và biến đổi các hạt giống rối loạn bệnh lý trong thời thơ ấu và do đó không có tỷ lệ mắc bệnh lý người lớn.
Nếu hiểu rằng các mảnh cá nhân (ở cấp độ linh hồn hoặc nhân cách) dù xa đến đâu cũng không thành vấn đề và con đường trở về nhà luôn thông qua hợp nhập, thì họ sẽ không bao giờ lạc mất tầm nhìn mục tiêu. Trong trường hợp này, chúng ta có thể về nhà một lần nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.