CHƯƠNG 25
Tương lai xa
THẾ KỶ II-13
Xác không hồn
không còn ở nơi tế lễ
Vào ngày
chết, nó được tái sinh.
Thần linh
thiêng liêng sẽ khiến cho linh hồn vui mừng
Khi nhìn thấy
sự vĩnh cửu của lời nói.
B: Ông ấy nói
rằng bài này đề cập đến một chuỗi các tình huống nằm ở tương lai
xa. Thế kỷ thứ 20 đang hướng tới điều này, nó đã ở trong tầm mắt,
nhưng vẫn còn phải đi một đoạn xa nữa mới đến. Một thứ mà ông ấy
hình dung được đó là những tiến bộ vượt bậc trong y học. Ông ấy nói
rằng vào thời của bà, tia sáng le lói đầu tiên của điều này có thể
được nhìn thấy qua cách mà những bác sĩ phẫu thuật ở trong phòng
mổ có thể mang người chết lâm sàng sống lại. Các bác sĩ đã khiến
họ sống lại để họ có thể sống được nhiều năm về sau nữa. Ông ấy
nói y học sẽ tiếp tục phát triển để con người dường như có thể
sống mãi mãi, vì ông ấy nói rằng cơ thể được tạo ra một cách vô
cùng kỳ diệu đến nỗi mà nó không nên chết đi sớm như vậy. Ông ấy
đang nhắc đến tuổi thọ trung bình ở thời của ông ấy. Và ông ấy nhìn
thấy một thời ở tương lai, mà người đã chết có thể được cứu sống
trở lại theo nhiều cách tuyệt vời, bằng cách thổi linh hồn vào thân
xác trở lại trước khi nó bắt đầu hư hỏng, hoặc là bằng cách tạo ra
một cơ thể mới giống như cơ thể cũ và thổi linh hồn vào nó trở
lại. Ông ấy nói rằng có nhiều thứ kỳ diệu ông ấy đã nhìn thấy về
công nghệ này. Trước khi công nghệ này được phát triển, sẽ có một
bước đột phá trong khoa học, mà sẽ làm đảo lộn mọi giai đoạn lý
thuyết của tất cả mọi ngành khoa học, và con người cuối cùng sẽ
chạm được đến Chúa Trời, có thể nói là vậy. Cốt lõi tâm linh của
vũ trụ mà liên kết vạn vật với nhau thông qua sinh lực (force of life)
cuối cũng cũng được khám phá ra, và nguồn gốc trung tâm của sinh lực
chính là thiêng linh (divine spirit). Ông ấy nói rằng khi nguồn này
được khám phá ra, việc thổi sự sống trở lại vào cơ thể sẽ hoàn
toàn có thể thực hiện được, bằng cách sử dụng một số sinh lực mà
tràn ngập khắp trong vạn vật.
D: Điều đó
hẳn sẽ còn rất xa trong tương lai.
B: Đúng vậy.
Nhưng ông ấy nói rằng một người bình thường ở thời của bà dễ dàng
tiếp nhận điều đó, hơn là một người ở thời của ông ấy.
D: Tôi có thể
hiểu việc người ở thời đại của ông ấy hoàn toàn không thể hiểu
được nó. Chúng tôi đã đạt được nhiều sự tiến bộ mà đã khiến điều
đó dường như là có thể khả thi. Khi tôi mới đọc bài thơ này, tôi đã
tưởng rằng nó liên quan tới cái chết của thế giới.
B: Ông ấy nói
không phải trong trường hợp này. Tuy nhiên, sự khám phá ra linh hồn
trung tâm, sinh lực này, sẽ là một thay đổi lớn đối với mọi thứ đến
nỗi nó gần giống như là thế giới được tái sinh lại lần nữa vậy.
Ông ấy nói mọi thứ có liên quan đến cách mà con người nghĩ, triết
lý của họ, y học của họ, khoa học của họ, mọi thứ sẽ được thay
đổi và đảo lộn hoàn toàn. Những gì từng được xem là bất khả, nay
lại trở thành khả thi. Và ông ấy nói rằng nhiều điều tuyệt vời sẽ
xảy ra. Không thể nào miêu tả hết tất cả chúng được.
D: Người dịch
nghĩa nghĩ rằng bài thơ này nhắc đến niềm tin tôn giáo của
Nostradamus.
B: Ông ấy nói
rằng đó không phải là một phán đoán tồi đối với một người không
biết gì về việc họ đang làm với bài thơ này cả. Khám phá ày sẽ
ảnh hướng đến triết học cũng như sẽ có một thay đổi to lớn. Vậy
nên, theo một cách nào đó, kết quả của khám phá này sẽ tác động
đến niềm tin tôn giáo của tất cả mọi người, và ông ấy có thể hiểu
tại sao người dịch nghĩa có thể cảm nhận được bài thơ có liên quan
đến tôn giáo.
D: Cô ấy viết,
“Nếu có bất kỳ ý nghĩa huyền bí nào trong bài thơ này, thì nó hẳn
là được cố tình ẩn giấu rất kỹ.”
B: Ông ấy nói,
“Dĩ nhiên! Từ ‘huyền bí’ có nghĩa là gì chứ?!”
D: (Cười) Lẽ
ra họ đã không nên bắt đầu dịch nghĩa bài này.
THẾ KỶ I-69
Ngọn núi vĩ
đại, bảy vòng tròn,
Sau hòa bình,
chiến tranh, nạn đói, lũ lụt.
Nó sẽ lan
rộng ra xa, nhấn chìm các quốc gia vĩ đại, thậm chí cả những
Cổ vật và
nền móng vững mạnh của họ.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy đang nói một cách bóng bẩy và tượng trưng ở đây. Ngọn
núi mà ông ấy nói về sẽ là sự phát triển của một triết lý mới
mà sẽ phù hợp hơn với tình hình thực tế của một cảnh giới cao hơn,
cũng như đời sống cao hơn ở đây, trên Trái Đất. Ngọn núi này, và
triết lý này sẽ có bảy khái niệm cơ bản mà bề ngoài, trông có vẻ
khá đơn giản, nhưng thật ra lại rất sâu sắc. Bảy vòng tròn (seven
stadia round) là biểu tượng của bảy nguyên lý cơ bản của triết lý
này, mà từ đó tất cả những suy tưởng cấp tiến khác sẽ phát triển
nên. Cách mà Trái Đất sẽ sẵn sàng cho triết lý này đó là, sau một
thời kỳ hòa bình, con người ta trở nên thiếu kỷ luật và không quan
tâm về những khía cạnh cao hơn của mọi thứ nữa bởi vì họ có được
mọi thứ khá dễ dàng. Sau khi trải qua một thời chiến, nạn đói và
khó khăn, và đại loại – những điều mà khiến tâm trí tìm đến những điều
cao cả hơn, nghĩ rằng hẳn là phải có thứ gì đó tốt đẹp hơn là
những thứ đang ở đây – họ sẽ sẵn sàng để chấp nhận triết lý này.
Nó sẽ tháo gỡ những mâu thuẫn mà họ phải xử lý bây giờ, trong
triết lý của họ. Cách suy nghĩ mới này sẽ lan tỏa khắp Trái Đất
và người ta sẽ chấp nhận được nó. Do đó, kết quả là, nó sẽ lật
đổ những tôn giáo cũ đã được thiết lập. Và vì vậy, nó sẽ có
những tác động đến xã hội và sẽ ảnh hưởng đến cả luật pháp của
một quốc gia nữa, bởi vì luật pháp vốn dựa trên những nguyên lý xã
hội và tôn giáo. Ông ấy nói rằng triết lý này sẽ có nguồn gốc từ
kiểu mẫu tư duy của Kỷ Nguyên Bảo Bình.
D: Những người
dịch nói rằng, “nó sẽ lan tỏa và nhấn chìm những đất nước vĩ đại”
đề cập đến một trận lũ lụt lớn. Tôi có lưu ý đến việc nhiều bài
thơ của ông ấy nhắc đến tôn giáo và triết học và những thứ tương
tự.
B: Ông ấy nói
cách mà tôn giáo và triết học phát triển ảnh hưởng đến loài người
nói chung, vậy nên nó sẽ hiện ra bất kỳ lúc nào ông ấy nhìn vào
tương lai. Đó là một phần rất quan trọng của tương lai và thế giới.
D: Bài thơ bốn
câu kết tiếp chứa một phép đảo chữ mà họ đã giải nghĩa. Có lẽ tôi
phải đọc cho ông nghe từ gốc bằng tiếng Pháp bởi vì họ đã xáo trộn
thứ tự những chữ cái đi.
B: Ông ấy nói
đầu tiên hãy thử đọc bản dịch nghĩa đã, rồi sau đó ông ấy rất có
thể sẽ yêu cầu bản gốc bằng tiếng Pháp. Nhưng ông ấy bảo bà hãy
tiếp tục.
THẾ KỶ II-12
Đội quân không
mục đích sẽ khởi hành từ châu u
và
Đến gần hòn
đảo chìm trong biển.
Hạm đội NATO
nâng cấp tiêu chuẩn của mình,
Cái rốn của
thế giới thay cho tiếng nói lớn hơn.
D: Từ NATO là
từ mà họ đã tạo ra từ phép đảo chữ của ông ấy.
B: Ông ấy nói,
“Và phép đảo chữ là gì?”
D: Trong tiếng
Pháp, nó là ARTON, và họ đã đổi nó thành NATO
B: Ông ấy bảo
rằng hãy đọc nó một lần nữa và thay từ NATO bằng ARTON (Tôi đã làm
vậy.) Ông ấy nói rằng đây là một sự kết hợp giữa nhiều thứ, như
thường lệ. Trong tương lai, sau những sự kiện tai hại vào cuối thế kỷ
thứ 20, tổ chức và những liên minh hiện tại giữa nhiều quốc gia khác
nhau, đặc biệt là những nước phương Tây sẽ tan rã và những khối liên
minh mới sẽ được thiết lập. Sau khi những khối liên minh cũ đã tan rã,
và trong khi những khối liên minh mới đang trong tiến trình được thiết
lập, những người có liên quan đến việc giữ-hòa bình dưới chế độ
liên minh cũ sẽ bị tan rã, có thể nói vậy. Ông ấy nói có một căn
cứ thủy quân bí mật, hoặc là một căn cứ tình báo mà đã được xây
dựng trên thềm lục địa Mỹ, bên dưới đại dương, để nó có thể được
giữ bí mật. Những người đứng đầu đội ngũ sẽ họp ở đó để quyết
định xem nên hành động thế nào, về việc thiết lập những khối liên
minh mới. Ý tưởng của việc có căn cứ tình báo này dưới biển bắt
nguồn từ truyền thuyết về Atlantis. Ông ấy nói, trong dấu ngoặc đơn,
ông ấy cũng thêm vào một chút về một hòn đảo bị chìm như một gợi
ý về sự thật rằng một ngày nào đó trong tương lai, sẽ có những
khám phá về những tàn tích chìm sâu dưới nước, của nền văn minh vĩ
đại này, mà đã đưa đến truyền thuyết về Atlantis.
D: Đó là
những gì tôi đã nghĩ ông ấy đang đề cập tới, vậy nên chúng ta đang đi
đúng hướng rồi đó.
B: Vâng. Ông ấy
nói rằng ông ấy lồng nhiều nghĩa vào bài thơ bốn câu này. Đó là lý
do tại sao dòng thơ đó nhắc đến Atlantis theo một cách gián tiếp. Ông
ấy nói sự giải nghĩa của từ ARTION thành NATO về căn bản là chính
xác rồi đấy, theo nghĩa chung, chứ không phải nghĩa chi tiết. Vào lúc
điều này xảy ra, NATO sẽ không được biết đến bằng cái tên đó nữa,
nhưng sẽ có một tổ chức tương tự mà được phát triển từ NATO. Khi tổ
chức cũ tan rã và những khối liên minh mới được thành lập, do kết
quả của sự căng thẳng từ chiến tranh mà những đất nước này sẽ phải
trải qua, mà nó sẽ phản ứng lại. Ông ấy nói rằng dòng thơ “cái rốn
của thế giới thay thế cho một tiếng nói vĩ đại” có nghĩa là vào
lúc sự kiện này xảy ra, những nhà khoa học thuộc quân đội – và khi
dùng cụm từ này, ông ấy không có ý nói đến những người nghiên cứu
nghệ thuật tạo ra chiến tranh đâu, mà là những người nghiên cứu cho
quân đội – họ sẽ khám phá ra một… lực mới. Ví dụ, có lực từ,
trọng lực, điện lực, những lực như thế. Ông ấy nói họ sẽ khám phá
ra một lực mới, và điều này sẽ cung cấp những bằng chứng hỗ trợ
cho những triết lý của phương Đông về bản chất của vũ trụ. Kết quả
là, những đất nước ở khu vực đó của thế giới, cụ thể là ́n Độ, sẽ hướng nội để suy nghĩ về
khám phá này, để họ có thể vươn lên trong vinh quang, hơn là hướng
ngoại và tiếp xúc với toàn bộ mạng lưới các quốc gia. Ông ấy nói
rằng thực ra nó không phải là một khám phá mà là một sự nhận
biết. Bằng chứng về lực này đã có ở trước mặt chúng ta và nào
giờ đã luôn ở đó, nhưng sự thật đã bị giải nghĩa và kết hợp sai
lầm.
D: Tôi cho rằng
họ tìm ra những ứng dụng khác cho nó phải không?
B: Đúng vậy,
bởi vì sự thật luôn ở đấy. Sự thật thứ nhất được liên kết với thứ
gì đó hoàn toàn khác biệt. Sự thật thứ hai được liên kết với một
thứ gì đó khác. Và sự thật thứ ba được xem như là, ví dụ như, một
quang sai thống kê. Sau đó, bỗng nhiên vài thiên tài sẽ có một ý
tưởng và liên kết ba sự thật tưởng rằng không có liên quan này lại
với nhau, nghiên cứu điều này để khám phá ra rằng có một loại lực
khác có liên quan đến sự vận hành của vũ trụ. Lực này sẽ giải
thích nhiều thứ từ những truyền thống phương Đông, ví dụ như dịch
chuyển tức thời và nhiều diễn biến kỳ diệu khác như vậy.
D: Ông ấy có
thể nói thêm với tôi về việc tìm ra bằng chứng về Atlantis không?
B: Ông ấy nói
rằng nó thực sự đã tồn tại, nhưng không phải dưới dạng thức phổ
biến trong các giả thiết. Nhiều người mường tượng về nó như một nền
văn minh Hy Lạp nào đấy với những ngôi đền có hàng cột và đại loại.
Ông ấy nói rằng sự thật là, nó không giống như vậy chút nào cả.
Một điều về Atlantis mà các nhà khoa học sẽ phải nhìn nhận đó là
họ đã sử dụng đá như cách người ta sử dụng kim loại ở thế kỷ thứ
20. Họ có những phương pháp làm đá trở nên dễ uốn nắn như đất sét,
và sau đó để cho nó cứng trở lại như đá. Họ đã làm việc với các
lực và năng lượng mà có thể được dẫn qua đá, giống như cách điện
được dẫn qua kim loại vậy. Ông ấy nói rằng nó là một nền văn minh
dựa trên một khái niệm về thế giới hoàn toàn khác biệt. Vì vậy,
khi những nhà khảo cổ học tìm nó, sẽ rất khó để họ có thể hiểu
được họ đã tìm được điều gì.
D: Ông có biết
họ sẽ tìm ra bằng chứng hay những tàn tích này ở đâu không?
B: Tôi sẽ hỏi
ông ấy. – Ông ấy nói rằng sẽ có nhiều tàn tích được tìm thấy ở
nhiều vùng khác nhau trên thế giới, bởi vì nền văn minh của Atlantis
là một nền văn minh toàn cầu. Đã có một vài mẩu bằng chứng nhỏ
được tìm thấy rồi, nhưng những nhà khoa học vẫn chưa đặt hai với hai
lại với nhau nữa, có thể nói vậy. Có một thành phố lớn của nền
văn minh đó, ở thềm lục địa phía đông nước Mỹ. Và có một thành phố
khác nơi mà bây giờ là vị trí của Biển Nhật (Sea of Japan). Có một
trung tâm lớn khác dưới lớp băng của Nam Cực. Có nhiều bằng chứng
của nền văn minh này ở Trung và Nam Mỹ. Và ông ấy nói còn những
bằng chứng khác ở nhiều nơi khác nữa. Vài trong số những bằng chứng
này đã được tìm thấy, và số còn lại vẫn chưa được tìm thấy. Ông
ấy nói rằng vài cấu trúc cự thạch (megalithic) trên thế giới cũng
có liên quan đến nền văn mình này, đặc biệt là các cấu trúc với độ
tính toán chính xác như là những cấu trúc ở nước Anh. Ông ấy nói
nó là nền văn minh kỳ diệu nhất và khi những nhà khoa học cuối cùng
cũng tìm ra nó, khi họ bắt đầu khám phá ra những tàn tích này và
mọi thứ, điều đó sẽ sửa đổi lại bức tranh của họ về thời tiền
sử.
D: Chúng tôi
có ý tưởng rằng nó nằm ở một hòn đảo chìm dưới nước, ở đâu đó
giữa Đại Tây Dương.
B: Ông ấy nói
rằng đã có lúc, một phần của nó nằm trên một hòn đảo, đơn giản
chỉ vì mực nước biển mà thôi. Giờ đây nó là một phần của một thềm
lục địa bởi vì nước biển dâng cao đủ để che phủ hòn đảo này. Nhưng
đấy không phải là trung tâm của nền văn minh mà cũng không phải là nơi
duy nhất mà nền văn minh đó từng tồn tại. Có tất cả những nơi khác
nữa, và họ đều giao tiếp với nhau bởi vì họ thuộc về một nền văn
minh chung.
D: Ông ấy đã
lấy được thông tin về Atlantis từ việc đọc (bài Tarot) hay là từ
những linh ảnh (khải tượng) của ông ấy vậy?
B: Ông ấy nói
ông ấy đã nhìn thấy nó qua chiếc gương và thông qua một thiết bị
khác mà ông ấy có. Ông ấy đang cho tôi xem một hình ảnh của nó. Nó
giống như một mẩu kim loại uốn cong, giống như một cái bát kim loại
rất cạn với một giá ba chân cân bằng trên nó. Và có một tinh thể
được treo trên giá ba chân. Nhưng tôi không biết cách mà nó hoạt động
hay vận hành thế nào.
Có lẽ điều
này có liên quan đến việc tập trung vào ngọn lửa thông qua những tinh
thể cô ấy đã đề cập đến trước đó. Có lẽ bằng cách nào đó, nó đã
phản chiếu ánh sáng lại trên bề mặt của chiếc bát. Bất kỳ bề mặt
có tính phản chiếu nào đều có thể được sử dụng như một tiêu điểm
để nhìn chăm chú và tập trung.
D: Chúng tôi
đã được bảo rằng Atlantis đã diệt vong trong một thảm họa lớn. Ông
ấy có biết chuyện gì đã xảy ra không?
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy có thể mô tả vài sự kiện nhưng ông ấy không chắc chắn
về nguyên nhân. Ông ấy có thể cho chúng ta biết những nghi ngờ của ông
ấy nếu chúng ta muốn nghe những sự thật vô căn cứ.
D: Vậy cũng
được, bởi vì nào giờ nó đã luôn là một bí ẩn và dù sao thì người
ta cũng đã đặt ra nhiều giả thiết về nó.
B: Ông ấy nói
rằng loài người đã trở nên vô cùng tiến bộ. Nền văn minh của họ
thật cấp tiến theo hướng mà họ đã và vẫn đang phát triển. Không có
những máy móc kỳ diệu mà nền văn minh của bà có, đơn giản chỉ vì
nền văn minh này đã phát triển theo một hướng khác. Con người dựa
vào (…) phần khả năng của trí óc để hoàn thành nhiều việc, hơn là
trông cậy vào sự nhanh nhẹn của những ngón tay để làm việc. Kết quả
là, nền văn minh đã có một khuôn mẫu hoàn toàn khác, và với cách
sử dụng này, khả năng của họ trở nên khá phổ biến. Khi nền văn minh
dường như đang ở tại thời điểm thực sự khai hoa và đi vào giai đoạn
hoàn thiện của chính nó – ông ấy không chắc liệu một số nền văn minh
của người ngoài hành tinh nào đó có can thiệp vào hay không, hay chỉ
đơn giản là một tai nạn tự nhiên đã xảy ra. Ông ấy nói rằng nếu một
tai nạn tự nhiên đã xảy ra, có vẻ như Trái Đất và hệ mặt trời bằng
cách nào đó, đã di chuyển qua một cụm nhiều tiểu hành tinh, đại
loại thế. Nhưng nếu nó không phải là một tai họa mà bởi một sự sắp
đặt, thì vài nền văn minh ngoài hành tinh đã thu thập những tiểu
hành tinh này, và Trái Đất đã đi xuyên qua chúng. Và những khối đá
khổng lồ này chạy xuyên qua bầu khí quyển và va đập vào mặt đất,
đã làm xáo trộn khí hậu và gây ra những làn sóng xung kích. Vài trong số chúng đã rơi xuống những thành
phố và phá hủy thành phố hoàn toàn. Sự kiện đã xảy ra theo cách
mà loài người đã mất đi mọi dấu tích của nền văn minh mà họ từng
có, và phải bắt đầu lại từ con số không. Ông ấy nói có thể thấy
được một số bằng chứng về những mảnh đá khổng lồ đã va vào Trái
Đất này. Mặc dù một trong số những tảng đá này có hình dạng bất
thường, nhưng về cơ bản, đã để lại những dấu vết va chạm có hình
tròn. Ông ấy nói rằng bà có thể dễ dàng nhìn thấy được điều này
trên một bản đồ tốt, do một thợ vẽ bản đồ lành nghề vẽ ra. Bà sẽ
nhận thấy có vài vùng nước về cơ bản, có hình tròn. Ông ấy nói
rằng biển Nhật Bản, biển Caribbean và Vịnh Mexico và những nơi khác
trên khắp thế giới đánh dấu một số nơi mà những tảng đá khổng lồ
này đã va vào Trái Đất và nước biển tràn vào, tiêu diệt những
người sống sót.
D: Đó là một
giả thiết vô cùng thú vị. Một trong những giả thiết người ta đặt ra
ở thời của chúng tôi đó là họ có một nguồn năng lượng bí ẩn và
họ đã lạm dụng nó.
B: Ông ấy nói
rằng họ đã không lạm dụng nó. Họ thực sự đã có một sức mạnh
huyền bí nhưng họ đã phát triển quá tiên tiến cùng với nó đến nỗi
mà ông ấy có cảm giác mạnh mẽ rằng họ trở thành một mối đe dọa
đối với ai đó khác, không phải do tính hiếu chiến, mà chỉ bởi họ
đã quá tiên tiến mà thôi.
D: Đấy là một
trong những giả thiết cho rằng, là con người, họ đã đi quá xa và lạm
dụng sức mạnh vì những nguyên do sai lầm, tạo ra một loại tai nạn
nào đó. Nhưng có nhiều giả thiết lắm. Đó thực sự là tất cả những
gì mà chúng tôi có.
B: Phải. Ông
ấy nói, một ngày nào đó, những bí mật sẽ được tìm ra, nhưng sẽ
mất một thời gian. Thứ mà đánh đố nhân loại, lại chính là thứ gây
được chú ý với họ lâu nhất. Lúc này ông ấy đang cười khúc khích.
Ông ấy nói, “Hai ví dụ điển hình là Atlantis và chính tôi đây. “
D: (Cười) Rất
đúng. Tôi thực sự tin rằng bài thơ bốn câu của ông ấy sẽ không tồn
tại nổi trong thời của chúng ta, nếu ông ấy viết chúng đơn giản thôi.
B: Ông ấy đồng
ý với bà.
D: Ông ấy đã
khiến cho nhân loại băn khoăn suốt nhiều năm, về những gì ông ấy đã cố gắng
nói. Tôi thực sự tin rằng nếu ông ấy có viết chúng ra bằng tiếng Anh
thông dụng đi nữa, thì hẳn là chúng cũng sẽ bị tiêu hủy hoàn toàn
mà thôi.
B: (Giả vờ
bực bội.) Ông ấy nói, “bằng tiếng Pháp thông dụng, nếu bà vui lòng.”
D: (Cười) Được
rồi. Nếu ông ấy đã viết chúng ra bằng ngôn ngữ thông dụng, tôi tin
rằng lẽ ra chúng đã bị tiêu hủy từ rất lâu rồi. Hẳn là chúng đã
không sống sót nổi, như một câu đố.
B: Ông ấy nói
hẳn là chúng có thể bị phá hủy khi ông ta chết. Ông ấy nói rằng
bất kể là ông ấy chết một cách tự nhiên hay bị giết bởi Tòa Án
Công giáo, hẳn là tất cả mọi ghi chép của ông ta sẽ bị đốt cháy
ngay lúc ấy, nếu họ có thể hiểu được chúng.
THẾ KỶ IV-25
Các thiên thể
vô tận có thể nhìn thấy bằng mắt thường,
Di chuyển đến
đám mây (trí tuệ) bởi vì những lý do riêng của chúng.
Cơ thể, cùng
với trán, các giác quan và đầu tất thảy đều vô hình,
khi những lời
cầu nguyện thiêng liêng giảm lại.
D: Họ không có
lời giải thích nào cho bài này. Họ không hiểu gì về nó cả. Họ liệt
chúng vào loại những bài thơ bốn câu huyền bí. “Huyền bí” (Occult)
thường có nghĩa là…
B: (Cắt ngang)
Bị ẩn giấu. Ông ấy nói bài này có đa nghĩa. Nó có một ý nghĩa
siêu hình, cũng như là một ý nghĩa vật lý. Ý nghĩa siêu hình đấy
là nhân loại nhìn chung sẽ bắt đầu tự phát triển tâm linh. Tri thức
mà họ cần cho sự phát triển này nào giờ đã luôn ở ngay trước mặt
họ rồi, nhưng họ vẫn chưa nhìn ra được nó. Và khi họ bắt đầu nhận ra
những gì đang ở đó, nó sẽ khiến họ bối rối. Ông ấy nói một cách
giải nghĩa khác của điều này là, tại một thời điểm nào đó trong
tương lai xa, sẽ có những cuộc du hành không gian giữa các vì sao.
“Các thiên thể vô hạn có thể được nhìn thấy” đề cập đến những ngôi
sao mà cứ tiếp tục tồn tại mãi. Và việc điều khiển những con tàu
du hành của họ sẽ bắt nguồn từ trí óc và sức mạnh PSI, chứ không
phải bằng những thao tác máy móc cơ học.
(*PSI power. PSI
= Pounds per square inch: là áp lực tạo ra bởi việc tác động một lực
có giá trị 1 Pound lên một diện tích có giá trị 1 inch vuông (1 square
inch))
D: Điều đó
cũng sẽ giải thích cho phần cuối nữa, “Những giác quan và cái đầu
tất thảy đều vô hình.” Ông ấy có thể có hứng thú với những gì mà
những người dịch nghĩa đã nói trong phần dịch nghĩa của họ. “Lời
câu nguyện trong dòng thơ cuối là lời cầu xin các linh hồn của Nostradamus.
Khi những lời cầu nguyện kết thúc, ông ấy đã bị ám (chiếm hữu).”
B: Ông ấy khịt
mũi, ra chiều kinh tởm trước lời nhận xét này và nói, “Hãy xé nó
ra và vứt đi.”
D: Họ nghĩ
rằng bài này miêu tả “cảm giác của việc không có thân thể mà ông ấy
đã trải nghiệm khi ông ấy ở trong trạng thái thiền định tiên đoán,
khi tâm trí và trí tuệ của ông ấy đã được sử dụng bởi người trời
cho mục đích riêng của họ.”
B: Tôi nhận ra
ông ấy có một khiếu hài hước đấy, vì vào lúc này, ông ấy nhanh
chóng bắt chước phản ứng thể chất của một người bị động kinh trong
cơn co giật.
(Cô ấy bắt
đầu giật cánh tay và chân của mình để bắt chước những gì cô ấy đang
nhìn thấy.)
D: Ý ông ấy
là việc (ông ấy) đang đá sao?
B: Sự co giật.
Ông ấy đang gây hài. Và khi ông ấy dừng điều đó lại, ông ấy đã nhận
xét rằng, “Điều đó không bao giờ xảy ra khi tôi thực hiện điều này.
Tôi không hề bị ám.”
D: Ồ, ông ấy
nghĩ rằng người ta sẽ trông như vậy khi họ bị ám sao?
B: À, ông ấy
nói rằng những người bị động kinh là những người đang bị ám, theo
như những gì mà họ biết cho đến thời điểm đó, vào thời của ông ấy.
Ông ấy đang lắc đầu và nói rằng đã đến lúc ông ấy phải đi rồi, nếu
sự lố bịch như vậy cứ xảy ra. Ông ấy nói ông ấy không bao giờ bị
ám. Ông ấy luôn biết chính xác những gì ông ấy đang làm vào mọi
lúc. Ông ấy nói thật tốt khi mà ông ấy có thể liên lạc được với
chúng ta để giải thích rõ nhiều thứ.
Vì vậy,
Nostradamus đã không hoàn toàn giác ngộ. Vẫn còn có nhiều thứ mà ông
ấy đã không biết. Dường như ông ấy đã chấp nhận lời giải thích từ
nhà thờ hoặc là từ kiến thức y học của thời bấy giờ, đó là khi
một người bị lên cơn động kinh, họ đã bị quỷ ám.
THẾ KỶ I-17
Trong bốn mươi
năm, cầu vồng sẽ không được nhìn thấy.
Trong bốn mươi
năm, nó sẽ được nhìn thấy mỗi ngày.
Trái Đất khô
hạn sẽ trở nên khô cằn hơn,
Và sẽ có
những trận lụt lớn khi nó (*cầu vồng) được nhìn thấy.
B: Ông ấy nói
rằng điều này có liên quan đến những rối loạn mà Trái Đất phải
trải qua. Điều này không liên quan đến kẻ Chống – Chúa, mà liên quan
đến những rối loạn ở tương lai xa. Ông ấy nói, phải, sẽ có rất
nhiều trận lũ lụt và hạn hán vào thời của kẻ Chống – Chúa, nhưng
bài thơ bốn câu cụ thể này là một ví dụ khác về việc cán cân
nghiêng về bên này rồi về bên kia. Đây là lúc mà sẽ lại có rối loạn
đối với Trái Đất một lần nữa, khi cầu vồng không xuất hiện trong
vòng 40 năm. Ông ấy nói rằng điều này sẽ gây ra một trận hạn hán
kéo dài 40 năm. Cách duy nhất mà con người sẽ sống sót được đấy là
làm tan chảy băng ở hai cực, hoặc là bằng cách chiết xuất nước tinh
khiết từ biển. Đó là cách duy nhất mà họ sẽ có nước để trồng trọt
và tương tự. Sau đó, trong nỗ lực cân bằng lại thế cục, cán cân (tự
nhiên) sẽ nghiêng về hướng ngược lại, và sẽ có cầu vồng mõi ngày,
gây nên nhiều trận mưa lớn và lũ lụt. Tuy vậy, yếu tố thời gian không
nhất thiết phải là 40 năm. Ông ấy nói ông ấy đang nói về những chu
kỳ lớn hơn. Điều chính yếu mà bài này đang chỉ ra, đó là bằng cách
nào đó, loài người sẽ làm gì đấy để khiến cho môi trường trên Trái
Đất bị mất cân bằng, bị mất đi trật tự vốn có, và do đó kích hoạt
một kỷ băng hà. Nước bị giữ lại trong băng ở hai cực, nên không có
nước mưa trong một khoảng thời gian. Sau đó, cán cân sẽ nghiêng về
hướng khác khi kỷ băng hà kết thúc, và có quá nhiều nước ở khắp
mọi nơi. Bởi vì hai cực sẽ tan chảy với tốc độ rất lớn, và sẽ có
nhiều trận mưa và lũ lụt, và mực nước biển sẽ lại dâng cao trở
lại. Ông ấy nói đây là một phần tự nhiên của lịch sử Trái Đất. Nó
đã xảy ra trong quá khứ và sẽ xảy ra lần nữa ở tương lai. Và một
lần nữa, như lần trước vậy, kỷ băng hà này sẽ khiến nền văn minh
này sụp đổ. Nó sẽ xóa mọi dấu vết của nền văn minh này để một
nền văn minh khác sẽ phải vươn lên sau này, là cách mà nó sẽ làm
lần này. Ông ấy nói rằng đây dường như là một chu kỳ tự nhiên trong
thời đại của Trái Đất.
D: Những chu
kỳ này có thể dài hơn hay ngắn hơn 40 năm hay không?
B: Ông ấy nói
rằng chắc chắn là dài hơn. Khi ông ấy nhìn những khoảng thời gian xa
xôi, đôi khi khá khó để xác định chính xác số năm, nhưng bà có thể
biết được các chu kỳ chung chung. Ví dụ, trong trường hợp này, ông ấy
nói rằng có thể là 4000 năm theo cách này và 4000 năm theo cách khác.
Đấy là chu kỳ của những thiên niên kỷ.
D: Khi tôi đọc
bài này, tôi đã tưởng rằng có lẽ ông ấy đang đề cập đến một sự
nghiêng hoặc một sự đảo trục Trái Đất.
B: Ông ấy nói
rằng điều này cũng có liên quan đến nữa. Bà đã nghĩ đúng đấy. Nhân
loại sẽ đi theo hướng nguy hiểm này (*đi dọc theo rìa của vách đá
này – walking along the edge of this cliff) bởi vì một số khía cạnh
thuộc công nghệ của họ sẽ đe dọa trạng thái cân bằng mong manh của
hệ sinh thái. Và sự đảo trục Trái Đất sẽ phá hủy sự cân bằng đó,
đủ để kích hoạt kỷ băng hà này.
D: Bài thơ bốn
câu này chắc chắn là về tận thế nhưng sẽ mất một khoảng thời gian
dài nữa thì điều này mới xảy ra.
B: Ông ấy nói
nó là một chu kỳ tự nhiên. Đừng hoảng loạn lên vì nó, vì nhân loại
đã sống sót qua những chu kỳ như vậy trước đây rồi.
D: Nhưng vấn
đề là nhân loại luôn phải bắt đầu lại từ đầu một lần nữa.
B: Ông ấy nói
rằng không nhất thiết là họ phải bắt đầu lại từ đầu một lần nữa,
nếu có một cách để bảo tồn nền tảng tri thức. Nhưng thường thì mối
quan tâm của người ta bị thu hẹp lại chỉ còn mỗi việc làm sao để
sống sót mà thôi. Họ không quan tâm đến việc bảo tồn kiến thức.
D: À, có lẽ
vị thiên tài vĩ đại mà ông ấy đã nói đến sẽ làm được điều gì đấy
liên quan.
B: Ông ấy nói
rằng đó là một khả năng, mặc dù hai sự kiện xảy ra cách nhau rất xa
đấy. Ông ấy nói rằng chúng ta sẽ phải chờ xem sao thôi.
THẾ KỶ II-95
Những vùng
đông dân cư sẽ trở nên không ở được,
Bất đồng lớn
để có được những vùng đất.
Vương quốc được
trao cho những người đàn ông không có khả năng thận trọng.
Sau đó, đối
với những người anh em vĩ đại, cái chết và sự chia rẽ.
B: Đây là một
trong số những sự kiện mà không nhất thiết phải xảy ra. Nó có thể
được ngăn chặn. Ông ấy nói trong những bài thơ trước mà chúng ta đã
giải nghĩa, ông ấy đã nhắc đến một sự kiện trong đó con người vượt
qua sự cân bằng của Trái Đất và gây ra nhiều thay đổi lớn về khí
hậu và mùa màng, gây ra nhiều khó khăn và đói kém. Kết quả của
điều này là, nhiều vùng đất hiện nay là đất nông nghiệp sản xuất
nhiều ngũ cốc và lương thực cho phần đông thế giới, sẽ bị đóng băng
và không còn trồng trọt lương thực thêm được nữa. Và những người dân
sống và đã trồng trọt lương thực ở đó, sẽ rời những vùng đất này
ra đi như bầy chuộc rời một con tàu đang bị chìm vậy. Họ sẽ chạy
tới những vùng đất mà vẫn còn có thể sống và trồng lương thực được.
Sẽ có nhiều sự chia rẽ và chiến đấu khi những vùng đất trở nên đông
đúc hơn và mỗi người đều cố đẩy người kia đi. Ông ấy nói rằng kết
quả của cuộc khủng hoảng là sẽ có nhiều quyết định ngu ngốc được
đề ra. “Vương quốc” tượng trưng cho những vùng của quyền lực, chứ
không phải là những vùng đất thông thường. Vì không suy nghĩ rõ ràng
dưới áp lực gây ra bởi sự thay đổi khí hậu khủng khiếp này, mà
những người được ban cho trách nhiệm ở những vùng nhất định, sẽ ra
những quyết định kém cỏi, điều mà sẽ dẫn đến những thảm họa lớn.
Hai người anh em mà sẽ trải nghiệm sự chia rẽ và phá hủy tượng trưng
cho nước Mỹ và nước Anh.
Nước Mỹ và
nước Anh nào giờ đã được đề cập đến như là anh em trong nhiều bài
thơ bốn câu khác.
D: Họ đã giải
nghĩa bài này có liên quan đến anh em nhà Kennedy.
B: Ông ấy nói
có nhiều bài thơ bốn câu khác đề cập đến anh em nhà Kennedy. Bài này
không phải.
Thế KỶ X-74
Năm của con số
thứ bảy vĩ đại đã hoàn tất,
Nó sẽ xuất
hiện vào thời điểm diễn ra các trò chơi tàn sát,
Cách không xa
thời của thiên niên kỷ vĩ đại,
Khi những
người chết sẽ ra khỏi mộ của họ.
B: Ông ấy nói
rằng bài này đề cập đến thời điểm tận thế đang đến. Ông ấy nói
toàn bộ thời đại của thế giới có thể được chia thành bảy phần
lớn. Sáu phần đầu tiên trong số này đã được trải nghiệm và hoàn
thành, và giờ đây chúng ta đang ở phần thứ bảy. Ông ấy nói rằng
phần thứ bảy của những thời đại này có liên quan đến con người và
những hành động của họ. Cuối thời đại này sẽ là cuối thời đại
của con người, sau khi thời đại thứ bảy này hoàn tất. Mặc dù Trái
Đất sẽ tiếp tục tồn tại qua vài thời đại sau đó, con người sẽ thực
hiện xong mục đích của họ, và hoàn thành những gì mà họ cần làm
ở đây, trên Trái Đất rồi. Thay vào đó, họ sẽ ở một nơi nào đó
khác, và vòng quay nghiệp quả sẽ không còn đưa con người đến Trái
Đất nữa, mà đến những nơi khác.
Điều này nghe
rất gần với những gì mà Phil đã nói rằng sẽ xảy ra trong tương lai
của loài người, trong quyển sách Những Người Giữ Vườn (The Keepers of
the Garden) của tôi.
D: Nhưng điều
này sẽ không xảy ra ngay, có phải không?
B: Ông ấy nói
là không. Khi viết những bài thơ về những vấn đề nghiệp quả, người
ta phải tính đến vòng quay vĩ đại của vũ trụ và tốc độ chậm rãi
mà nó xoay chuyển. Về tầm cỡ vũ trụ, trông có vẻ như nó sẽ xảy ra
sớm. Nhưng điều đó chỉ đúng khi đặt dưới thời kỳ vĩ đại của vũ
trụ mà thôi. Khi đặt điều này trong vòng đời ngắn ngủi của con
người, nó dường như sẽ là khá xa trong tương lai.
D: Quả là nhẹ
nhõm. Ông ấy có ý gì khi nói, “Nó sẽ xuất hiện vào thời điểm diễn
ra các trò chơi tàn sát”?
B: Ông ấy nói
từ giờ cho đến lúc đó, nền văn minh sẽ sụp đổ và được tái xây dựng
nhiều lần. Vài truyền thống và lề thói của những nền văn minh cũ
sẽ tồn tại và được truyền lại, nhưng mỗi một lần điều này xảy ra,
chúng sẽ bị biến chất nhiều hơn một chút. Ông ấy nói những trò chơi
tàn sát vào thời đó bắt nguồn trực tiếp từ những trò chơi Olympic
ở thời của bà. Thông qua sự kế thừa của các nền văn minh với những
giai đoạn tàn bạo xen kẽ, cuộc họp định kỳ mỗi bốn năm một lần của
tất cả quốc gia để thực hiện những sự kiện thể thao này, dần dần
sẽ bị làm cho biến chất thành thứ gì đó giống như những trò chơi
đấu sĩ của thời La mã cổ đại. Ông ấy nói nó đơn giản chỉ là một
ví dụ tự nhiên khác về vòng thời gian. Các trò chơi bắt đầu dưới
hình thức thể thao ở thời Hy Lạp cổ xưa, bị làm cho biến chất thành
bạo lực ở La Mã, và sau đó, khi các trò chơi được tổ chức trở lại,
nó lại mang xu hướng thể thao. Nhưng một lần nữa, trong tương lai xa,
chúng sẽ bị làm cho biến chất thành bạo lực và đổ máu.
D: Có lẽ tôi
bắt đầu nghĩ hơi giống với ông ấy, bởi vì tôi đã chọn ra mối tương quan
với những trò chơi đấu sĩ. Và bằng cách nói “những người chết sẽ
ra khỏi mộ của họ”, ông ấy đang đề cập đến việc linh hồn của họ
được đưa đến nơi khác từ hành tinh này.
THẾ KỶ I-48
Khi sự trị vì
trong hai mươi năm của Mặt Trăng trôi qua,
Một người
khác sẽ tiếp tục kế vị trong bảy nghìn năm.
Khi vầng Mặt
Trời cạn kiệt tiếp nối chu kỳ của nó,
Những lời tiên
tri và mối đe dọa của tôi sẽ hoàn tất.
B: Ông ấy nói
ông ấy đã viết bài thơ bốn câu này để trả lời một câu hỏi được đưa
ra cho ông ấy vào một lần nọ. Có người đã nhận thấy những lời tiên
tri của ông ấy sắp xảy ra và ai đó đã nhận xét, “Ông đã viết quá
nhiều lời tiên tri và ông vẫn đang viết nhiều hơn nữa. Phải mất bao
lâu để tất cả những điều này xảy ra hết?” Vì vậy, ông ấy đã viết
bài thơ bốn câu này để trả lời, chỉ ra cho họ thấy rằng không có
giới hạn nào đối với số năm trong tương lai mà ông ấy đã nhìn thấy
cả. Ông ấy nói, ông ấy có thể thấy, không phải là kết thúc của
thời gian mà là kết thúc của Trái Đất.
D: Đó có phải
là ý ông ấy khi dùng cụm từ “vầng Mặt Trời cạn kiệt” không? Điều
đó có thể có nghĩa là bất cứ khi nào Mặt Trời cạn kiệt sao?
B: Ông ấy nói
bất kỳ khi nào điều đó xảy ra, thì Trái Đất sẽ chết từ lâu rồi.
Nhưng ông ấy đã nhìn thấy Mặt Trời phát ra một luồng năng lượng cuối
cùng trong một vụ nổ lớn và rồi chết dần đi thành hư không. Phần
này của bài thơ có liên quan đến sự thật rằng ông ấy có thể nhìn
thấy đến tận cùng thời gian của Trái Đất, khi Mặt Trời bùng nổ và
hoàn toàn thiêu rụi hành tinh. Ông ấy nói, tuy nhiên, điều đó còn xa
vô cùng trong tương lai, và không ảnh hưởng gì đến thời của bà cả.
D: Nhưng ông ấy
có ý nói rằng tất cả điều này sẽ xảy ra nội trong vòng bảy nghìn
năm không, hay là điều đó có một nghĩa khác nữa?
B: Ông ấy nói
những dòng về “Khi sự trị vì trong hai mươi năm của Mặt Trăng trôi qua,
một người khác sẽ tiếp tục kế vị trong bảy nghìn năm.” Ông ấy đã
đặt vào bài thơ bốn câu này bởi vì Tòa Án Công giáo mà thôi. Điều
đó chỉ ra rằng nếu chúng ta có thể sống sót qua những trận chiến
tranh mà ông ấy đã nhìn thấy… Ông ấy đang cố gắng ngăn chặn những
cuộc chiến tranh này bởi vì ông ấy dã nhìn thấy nhiều linh ảnh về
những gì có thể xảy ra nếu chúng ta không giết chính chúng ta, để gây
chiến trước. Một trong những điều ông ấy đã thấy là chương trình
khám phá và mở rộng không gian, mang tính bao quát và hòa bình, con
người phát triển và sống trong những môi trường kỳ lạ, thịnh vượng
và phát triển. Ông ấy nói rằng sẽ có một căn cứ được thành lập
trên mặt trăng. Nó sẽ là một trung tâm lớn của truyền thông và nghiên
cứu khoa học. Trong thời gian này, mục đích chính của căn cứ này sẽ
là để phát triển – ông ấy gọi chúng là “những trạm không gian tự
do,” nghĩa là độc lập khỏi mọi thứ và mọi người khác. Tôi nghĩ ý
ông ấy là “tự cung tự cấp”, vì vậy tôi thay thế từ này bằng thuật
ngữ hiện đại hơn.
D: Ông ấy đã
gọi chúng là những trạm không gian hay đó là sự dịch nghĩa của cô
vậy?
B: À, ông ấy
đã không gọi chúng là gì cả, ông ấy đã mường tượng ra chúng. Chúng
có nhiều hình dạng khác nhau: Một vài có hình trụ, một vài có
hình nón và một vài thì có hình cầu. Những cánh buồm năng lượng
mặt trời (solar sails) lớn được gắn vào chúng để cung cấp năng lượng
cần thiết cho chúng. Ông ấy nói rằng căn cứ trên mặt trăng sẽ phát
triển và xây dựng các trạm không gian này. Sau một giai đoạn thực
hiện điều này, động lực chính của sự tăng trưởng sẽ chuyển đến các
trạm vũ trụ. Đó là nơi trung tâm chính của hoạt động thương mại và
các ngành công nghiệp sẽ tọa lạc, vì vậy, mặt trăng sẽ không có một
vị trí quan trọng như vậy, trong kế hoạch của nhiều thứ nữa. Nó sẽ
vẫn giữ vai trò là trạm thông tin liên lạc, nhưng nghiên cứu khoa học
và công nghiệp và những thứ tương tự sẽ chuyển ra các trạm vũ trụ.
Trái Đất sẽ bước vào một thời kỳ thịnh vượng và phát triển quan
trọng vì sẽ có đủ chỗ để phát triển, và đủ chỗ cho tất cả mọi
người. Mọi thứ căn bản sẽ yên bình nếu Trái Đất xoay sở để tránh
được những quyết định tồi tệ nhất định mà có thể dẫn đến chiến
tranh, và nếu Trái Đất cập nhật luật dân sự của mình, để không có
nhiều bất ổn quần chúng. Ông ấy nói về khoảng thời gian khám phá
không gian và sống này… ông ấy cười khúc khích và nói rằng nó giống
như “văn học suy đoán” (speculative literature) mà người giao tiếp này
(Brenda) thích đọc (tiểu thuyết khoa học giả tưởng). Thời kỳ này sẽ
tồn tại trong một khoảng thời gian rất dài, dễ dàng kéo dài qua bảy
nghìn năm, nếu không phải còn dài hơn thế. Ông ấy nói rằng một lần
nữa, ông ấy đã phải gộp hai lời tiên tri lại trong cùng một bài thơ
bốn câu.
D: Họ đã giải
nghĩa bài này có liên quan đến ngày xuất bản của những bài thơ của
ông ấy và ngày kết thúc của những lời tiên tri của ông ấy. Họ tưởng
ý của ông ấy là nó sẽ kéo dài bảy nghìn năm, cho tới ngày tận
thế. Người dịch nghĩa nói, “Đó là một lý thuyết phổ biến vào thời
Trung Cổ rằng thế giới sẽ kết thúc vào đầu thiên niên kỷ thứ bảy.
Thông tin này bắt nguồn từ Cuốn Sách của Enoch (the Book of Enoch), vốn
là sách đọc phổ biến vào thế kỷ thứ nhất và thứ hai, nhưng đã bị
nhà thờ xóa khỏi Kinh Thánh (the holy Scriptures).” Ông ấy có bình
luận gì về điều đó không?
B: Vào lúc
này, ông ấy nhướng mày và nói rằng đó là một giả định hợp lý.
Nhưng ông ấy nói, “Công cụ mà tôi sử dụng không phải lúc nào cũng có
lý.” Và lúc này, ông ấy đưa cho tôi xem hình ảnh của chiếc gương đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.