CHƯƠNG 10
Những bài thơ bốn câu liên hệ với quá khứ
B: Ông ấy đang
trong quá trình đến đây. Bà không nhìn thấy những gì tôi nhìn thấy,
vậy nên bà không biết nó như thế nào. Nó giống như nhìn thấy ai đó
xuất hiện từ trong sương mù. Khi bà mới bắt đầu nhìn thấy họ, theo
một cách diễn giải nào đó thì họ đang ở đó. Nhưng họ đang làm rõ
sự kết nối bằng cách xuất hiện từ trong sương mù. Vậy nên ông ấy
đang ở đây rồi; chỉ là ông ấy đang đến.
D: Vậy khi ông
ấy trở nên rõ ràng hơn hay gần hơn thì cô biết là ông ấy đang ở đó
phải không?
B: Rõ hơn.
Không có thứ như là khoảng cách ở đây bởi vì có một chuỗi thời
không khác hoạt động ở cảnh giới này. Tôi đã nghĩ rằng mô tả này
sẽ gây hứng thú cho bà. Thỉnh thoảng tôi quên rằng bà không thể nhìn
thấy chúng, bởi vì chúng xuất hiện quá rõ ràng với tôi. Và vậy nên
ông ấy đang ở đây. – Ông ấy nói rằng khi bà đã đang trong quá trình
lựa chọn những bài thơ bốn câu mà bà đã cảm thấy bị thu hút, ông
ấy đã biết rằng sẽ có vài bài từ quá khứ được bao gồm trong đó.
Điều này đã là cần thiết để giúp thêm góc nhìn vào cho những bài
thơ mà (*sự kiện trong đó) vẫn chưa xảy ra. Để những người đang đọc
những thứ này sẽ bắt đầu hiểu được cách ông ấy suy nghĩ, và bằng
cách đó, sẽ bị thuyết phục về những sự kiện vẫn còn chưa xảy ra.
D: Tôi không có
cách gì để biết liệu chúng có liên quan gì đến quá khứ hay không.
B: Ông ấy nói
rằng điều đó là không có vấn đề gì. Bởi vì bà chọn bài mà đã
xảy ra sẽ giúp bà kiểm tra được sự chính xác của sự chuyển ngữ và
giải nghĩa của nhiều bài khác nhau. Nó cũng hỗ trở để minh họa cho
việc ông ấy có ý nói rằng nhiều bài thơ bốn câu có thể nhắc đến
nhiều hơn một thứ là như thế nào. Bởi vì nếu nó là một bài thơ mà
đã xảy ra rồi, người ta sẽ có một bức tranh hoàn chỉnh hơn về những
gì đã xảy ra trong cả hai sự kiện và có thể thấy một bài thơ có
thể đáp ứng cả hai sự kiện như thế nào.
Khi chúng tôi
bắt đầu giải nghĩa ngày càng nhiều những bài thơ bốn câu hơn, tôi đã
nhận ra tôi sẽ phải bắt đầu đưa ra quyết định về việc sẽ thêm vào
quyển sách này những bài nào. Tôi đã bị thuyết phục rằng sẽ có
những quyển tiếp theo nếu chúng tôi muốn in tất cả chúng ra, vì một
quyển sách sẽ không bao giờ có thể chứa hết chúng. Nostradamus đã tư
vấn cho tôi về điều này và đã gợi ý rằng chúng tôi nên bỏ những
bài mà có liên hệ với quá khứ quá xưa cũ đi, và tập trung vào những
bài mà mô tả những sự kiện trong suốt 100 năm gần đây nhất hay khoảng
đấy thôi. Ông ấy đặc biệt đã muốn tôi tập trung vào những bài mà sẽ
gắn liền với những sự kiện sẽ đến trong vòng 20 năm tới. Ông ấy đã
cảm thấy những bài này là mang tính sống còn và là nguyên tố tối
quan trọng của dự án này. Tôi nhận thấy những bài có liên quan đến
quá khứ thật thú vị và đã nghĩ rằng người đọc cũng sẽ thấy như
vậy, nhưng tôi đồng ý là ông ấy rất có thể đã đúng. Ông ấy đã đề
xuất rằng chúng được thêm vào sau đó trong một quyển sách cho những
người tò mò về lịch sử.
Tôi không muốn
người đọc hiểu nhầm rằng mọi bài thơ giải nghĩa bởi Nostradamus trong
suốt cuộc thực nghiệm này chỉ có liên hệ tới thời hiện đại. Đây có
thể sẽ là một nhầm lẫn lớn. Những bài tôi đã chọn để tĩnh lược đi
có liên quan đến Cách Mạng Pháp, Napoleon, số phận của nhiều đời
hoàng tộc ở Châu u, Nội Chiến Tây
Ban Nha, Đại Thế Chiến lần thứ I, etc.
Nostradamus
cũng có một niềm đam mê dự đoán xu hướng trong tôn giáo và triết
học. Ông ấy cảm thấy điều này có một ảnh hưởng sâu sắc đến tương
lai của thế giới. Tôi đã quyết định lược đi nhiều bài như vậy bởi
vì chúng có liên quan đến những nền văn hóa trong thời quá khứ.
Tôi sẽ chỉ
giữ lại một vài bài thơ bốn câu gắn liền với quá khứ trong chương
này để trình bày dòng tư tưởng của ông ấy. Phần còn lại một ngày
nào đó sẽ ở trong một quyển sách khác mà sẽ có nhiều không gian để
nghiên cứu những bài này và theo dõi sự chính xác đặc biệt của ông
ấy. Tôi nghĩ rằng những bài mà tôi quyết định giữ lại trong quyển
sách này sẽ còn hơn cả giải thích được sự vận dụng uyên thâm của
những phép tượng trưng phức tạp của ông ấy.
THẾ KỶ 1-25
Thứ thất lạc
đã được khám phá ra, ẩn giấu suốt nhiều thế kỷ.
Pasteur sẽ
được tuyên dương gần như một vị chúa
Đấy là khi
mặt trăng hoàn thành chu kỳ vĩ đại của nàng,
Nhưng vì nhiều
tin đồn khác mà ông ta sẽ bị mất danh dự.
D: Thật thú
vị là ông ấy dùng tên đó, Pasteur.
B: Ông ấy nói
rằng cái tên nhắc đến người mà bà nghĩ rằng nó nhắc đến. Những bí
mật dược lý mà Pasteur đã khám phá ra được đơn giản là sự tìm lại
được những thứ mà đã được biết đến trước đó rồi, nhưng lại bị mất
đi suốt thời kỳ tăm tối (thời tiền trung cổ). Ông ấy nói rằng vài
thứ mà Pasteur làm… đã làm… ông ấy nói rằng ông ấy đang bị nhầm lẫn
với các thì thời gian của ông ấy.
D: (Cười) Bởi
vì nó là tương lai của ông ấy và quá khứ của chúng ta đấy.
B: Phải. Ông
ấy nói rằng vài thứ mà Pasteur làm sau đó sẽ bị thay thế bởi những
phương pháp hành nghề tốt hơn. Và những thứ mà anh ta đã làm sẽ
được xem là không phải là cách tốt nhất để thực hiện. Đó là ý ông
ấy khi nói “bị mất danh dự”, bởi vì những cách tốt hơn để làm được
điều mà Pasteur đã khám phá ra sẽ được tìm thấy.
D: Ý điều đó
là như thế sao, “khi mặt trăng hoàn thành chu kỳ vĩ đại của nàng”?
B: Không. Ông
ấy nói rằng mặt trăng có nhiều chu kỳ mà tất cả các nhà khoa học
nói chung dường như không ý thức được. Nếu có nhà khoa học hoàn toàn
ý thức được những chu kỳ của mặt trăng, họ hẳn có thể sẽ không bị
nhầm lẫn với mục đích và sự xây dựng của những cấu trúc như là
bãi đá cổ Stonehenge. Về điều này, chu kỳ vĩ đại của mặt trăng bao
gồm từ thời sụp đổ của nền văn minh Atlantis cho tới sự vươn dần đến
văn mình trở lại và sự khám phá ra lại những tri thức mà đã bị
lạc mất nhiều thế kỷ trước.
D: Vậy đó là
điều mà nó có ý nói đến. Pasteur đã chỉ đang khám phá ra lại những
thứ mà đã được biết đến vào thời Atlantis. Và “vì nhiều tin đồn
khác mà ông ta sẽ bị mất danh dự” có nghĩa là họ sẽ tìm ra nhiều
cách khác để thực hiện những điều này. Những người giải nghĩa đã
không thể liên kết bài thơ này với Pasteur bởi vì ông ấy dùng tên
riêng. Ông ấy không có nhiều bài mà trong đó ông ấy thực sự đã nhắc
đến tên ai đó.
B: Thỉnh
thoảng một người cụ thể sẽ nổi bật lên. Ông ấy nói rằng y học hiện
đại như bà biết sẽ không tồn tại nếu đã không nhờ có những nghiên
cứu của Pasteur.
Trong suốt
những tháng mà chúng tôi đã làm việc, chúng tôi đã giải nghĩa vài
bài thơ bốn câu có liên quan đến Đại Thế Chiến lần thứ I. Nostradamus
đã bình luận về những người có tên tuổi chính yếu, mà có liên quan
đến cuộc chiến đó. Lạ lùng là, khi ông ấy nhắc đến Tổng Thống
Franklin Roosevelt, ông ấy đã vẽ ra một bức tranh khá khác biệt với
những gì mà những người đang sống vào thời đó như chúng ta đã nhìn
thấy. Ông ấy đã luôn nhìn nhận rằng ông ta (Roosevelt) là một người
đàn ông vĩ đại, người mà đã mang chúng ta qua khỏi cuộc chiến tranh.
Nostradamus nhắc đến ông ấy như một người đàn ông đã có khả năng thao
túng quyền lực tổng thống của mình để trở thành gần như một vị vua.
(THỂ KỶ VIII-24) Ông ấy đã đảm nhiệm nhiều nhiệm kỳ hơn bất kỳ vị
tổng thống nào khác, và có nhiều bàn luận vào thời đó rằng ông ấy
có thể sẽ trở thành tương tự như một vị vua. Nó là vào lúc đó
Quốc Hội đã giới hạn số nhiệm kỳ mà một tổng thống đã có thể
đảm nhiệm. Ông ấy cũng đề cập đến Roovelt đã thao túng để kéo chúng
ta vào một cuộc chiến tranh. Vào THẾ KỶ 1-23 con báo đại diện cho
nước Anh và con lợn đực đại diện cho Quốc xã Đức bởi vì họ là một
đám như lợn vậy. Mỹ được nhắc đến như một con chim đại bàng đùa chơi
quanh mặt trời, cho thấy rằng chúng ta theo lý thuyết là trung lập.
Bài thơ này đề cập đến một thời điểm, “tháng thứ ba vào lúc bình
minh.” Đây không phải thuộc về chiêm tinh học mà được nhắc đến thời
gian mà nước Anh bắt đầu cảm thấy bị đe dọa bởi Đức và đã đang cố
lôi kéo Mỹ vào tham chiến. Ông ấy đã chỉ ra rằng Roovelt đã phải tìm
ra một cách để bước vào cuộc chiến với sự ủng hộ của người dân.
Nghiên cứu đã chứng minh rằng điều này là chính xác. Vào tháng Ba
năm 1941, Roovelt đã đưa ra mọi sự giúp đỡ “không đủ chiến tranh” cho
nước Anh. Những người thuộc phe đối lập quyền lực nhất đã buộc tội
ông ấy (Roosevelt) là đã chuẩn bị cho đất nước bước vào tuyên chiến.
Lý do để kéo chúng ta vào tham chiến đó là để giúp nền kinh tế.
Trong THẾ KỶ 1-84, Roosevelt được miêu tả như một người vĩ đại ẩn
mình trong bóng tối cầm một lưỡi dao ngập trong một vết thương đang
rỉ máu. Điều này đã có ý nghĩa là ông ấy đã làm những thứ để
kích động nước Nhật. Nước Anh được đề cập tới như là một người anh
em của ông ấy trong bài thơ bốn câu này. Có vài những ví dụ khác
trong đó Nostradamus nhắc tới nước Anh như là người anh em của chúng
ta. Roosevelt một lần nữa được nhắc tới trong THẾ KỶ 11-9, như một
người đàn ông gầy gò, người mà có một sự cai trị hòa bình trong
vòng chín năm trước khi trở nên khát máu. Ông ấy đã được bầu vào năm
1932 và chúng ta đã tham chiến vào tháng Mười Hai năm 1941. Mặc dầu
chín năm này bao gồm thời kỳ Đại Khủng Hoảng, nó đã khá hòa bình.
Đã có nhiều bài thơ bốn câu khác, nhưng những bài này là đã đủ để
biểu hiện được cách mà Nostradamus nhìn Roosevelt và sự tham gia vào
Đại Thế Chiến thứ II của đất nước chúng ta.
Những lưỡi kiếm
nhỏ máu từ những vùng đất xa xôi.
Một đại dịch
bệnh sẽ đến với vỏ bọc vĩ đại, sự thuyên giảm ở gần, nhưng sự
chữa trị thì còn ở xa.
B: Ông ấy nói
rằng bài thơ bốn câu này nhắc đến Đại Thế Chiến thứ I và II. Những
địa danh được nhắc tên ở đầu bài chỉ ra những nơi mà đã đóng những
vai trò quan trọng trong Đại Thế Chiến thứ I. Cái cách mà chính trị
đã trở nên rối ren ở châu u là
điều đã gây ra Đại Thế Chiến thứ I và II. Ông ấy nói rằng nếu Đại
Thế Chiến thứ I đã không diễn ra, thì sẽ không có những Đại Thế
Chiến thứ n. Bệnh dịch được giải phóng bởi một vỏ bọc vĩ đại đã
chính là những quả bomb nguyên tử thả xuống nước Nhật. Họ đã có một
chút sự giảm đau y học đỡ cho những bệnh nhân ở đó, nhưng sự chữa
trị đã phải được mang đến bởi nước Mỹ, thứ mà đã còn cách rất xa.
D: Họ đã giải
nghĩa điều này như là điều gì đó mà có thể sẽ xảy ra trong tương lai.
Họ tưởng ông ấy đang nói về chiến tranh hóa học, khí gas hay những
điều tương tự.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy có thể hiểu họ lấy khía cạnh đó của sự giải nghĩa từ
đâu, bởi vì chiến tranh hóa học ứng dụng trong Đại Thế Chiến thứ I.
Ông ấy cũng đã ám chỉ về điều đó. Ông ấy đã đang nói về cả hai sự
kiện, Đại Thế Chiến thứ I và Đại Thế Chiến thứ II, với Đại Thế
Chiến thứ II là gây thiệt hại nặng nề nhất trong cả hai.
Tôi có thể
hiểu bây giờ rằng bài thơ này đã chính là một ví dụ hoàn hảo về
những lời tiên tri mang nghĩa kép của ông ấy. Của việc lịch sử lặp
lại chính nó, bằng cách nhắc đến cả cuộc chiến hóa học như là một
bệnh dịch cũng như bệnh dịch gây ra bởi sự phơi nhiễm chất phóng xạ.
Trong bài thơ
này những địa danh đã có tầm quan trọng, nhưng thường khi Nostradamus
dùng tên thành phố, chúng đã chỉ ra một đất nước. Những bài thơ bốn
câu đã luôn luôn bị giải nghĩa sai bởi vì những người giải nghĩa đã
thường nghĩ rằng ông ấy đang nhắc đến một sự kiện mà có thể sẽ
xảy ra ở một thành phố nhất định trong khi trên thực tế ông ấy đang
dùng những cái tên đó như là biểu trưng cho một đất nước.
Bài tiếp theo
cũng nhắc đến bomb nguyên tử.
THẾ KỶ V-8
Sẽ có nhiều
đám cháy lan tràn và những cái chết bí ẩn,
Sợ hãi bên
trong những quả cầu cầu kinh khủng.
Vào ban đêm
thành phố sẽ bị biến thành gạch vụn bởi những hạm đội,
Thành phố bị
cháy, có lợi cho kẻ thù.
B: Những đám
cháy bên trong những quả cầu kinh khủng nhắc đến chất phóng xạ từ
bomb nguyên tử thả xuống nước Nhật. Rằng nó đã đốt như lửa nhưng
người dân đã có thể không chết ngay lập tức như trong đám cháy thông
thường, và họ đã phải sống trong nỗi đau đớn hành hạ của nó trước
khi chết. Hạm đội nhắc đến những máy bay của người Đức bay qua và
thả bomb vào Luân Đôn và biến nó thành gạch vụn. Những quả cầu đáng
sợ đã chính là những quả bomb cháy. Họ đã muốn cung cấp ánh sáng
để có thể nhận ra những mục tiêu của mình. Và vì vậy họ có thể
đã thả những quả cầu chứa những dung dịch phát nổ, thứ mà sẽ bén
lửa khi tiếp xúc, để giúp cung cấp ánh sáng để xác định tầm ngắm
cho những quả bomb hủy diệt khác.
D: Điều đó có
lý bởi vì họ đã có những đợt mất điện trong suốt Đại Thế Chiến
thứ Hai.
Có nhiều bài
thơ bốn câu có liên quan đến Hitler. Nhiều bài trong số này có thể đã
được dịch nghĩa một cách chính xác, đặc biệt là khi Nostradamus đã
dùng phép đảo chữ “Hister” để nhắc đến Hitler. Tôi sẽ thêm vào một
bài mà không được rõ ràng lắm.
THẾ KỶ 111-36
Bị phỏng, đột
quỵ nhưng không chết,
Ông ta sẽ được
tìm thấy với đôi tay bị ăn mòn;
Khi thành phố
kết án kẻ dị giáo, người mà, dường như đối với họ,
Đã thay đổi
luật lệ của họ.
B: Bài này đề
cập đến việc tự sát của Hitler và cái chết và những hậu quả còn
lại được tìm ra ở đó trong hầm ngầm. Đôi tay của ông ta có vẻ như đã
bị ăn mòn là hình ảnh ẩn dụ của việc quyền lực đã từng là vĩ
đại của ông ta đã vỡ vụn và ông ta không còn có thể vươn xa như ông ta
đã từng trước đó. Và những nước đồng minh đã, có thể nói là, đang
gặm nhấm bờ cõi của ông ta.
D: Đột quỵ
thường có ý chỉ ai đó đang hôn mê hay điều gì tương tự, phải không?
B: Nó là ai
đó lồi mắt lên vì giận dữ, ai đó bị đánh bục bởi một tai nạn
nghẽn mạch máu não do cao huyết áp, có thể bị gây ra bởi việc tức
giận. Ông ấy nói rằng người đàn ông này (Hitler) đã không thể điều
khiển được những cảm xúc hay sự say mê của ông ta, và ông ta sẽ bị
cuốn đi. Ông ta sẽ bắt đầu nói về một chủ đề mà sẽ làm ông ta tức
giận và để cảm xúc của ông ta cuốn ông ta đi cho tới bờ vực của một
cơn suy nhược thần kinh.
D: Vậy ra đây
là cách mà Nostradamus đã nhìn ông ta. Tôi nghĩ rằng người ta đã nói
rằng Hitler đã vô cùng bất ổn về mặt cảm xúc. – Phần thứ hai có
nghĩa là gì: “Khi thành phố sẽ kết án kẻ dị giáo, người mà, dường
như đối với họ, đã thay đổi luật lệ của họ.” Điều đó cũng liên quan
đến Hitler sao?
B: Chắc chắn.
Ông ấy tưởng rằng điều đó hẳn sẽ hiện ra vô cùng rõ ràng với bà
nên ông ấy đã không buồn đưa ra một lời giải thích nào cho bà. Thành
phố đã luôn nói rằng, “Heil Hitler,” và tích cực noi gương ông ta và
nói rằng ông ấy đã hoàn hảo và mọi thứ như thế nào. Nhưng nó đã
lại vô cùng nhanh chóng kết tội ông ta sau cái chết của ông ta, bởi
vì ông ta đã thay đổi cách làm mọi thứ từ một chế độ dân chủ sang
một chế độ độc tài.
D: Luôn có
nhiều phỏng đoán rằng Hitler đã không thực sự chết trong hầm ngầm.
Có ý kiến cho rằng có lẽ ông ta đã trốn thoát bằng cách nào đó và
ai đó đã chết thay cho ông ta.
B: Ông ta đã
thực chết ở đó. Những nhân vật quan trọng của đảng Quốc xã Đức còn
sống và trốn thoát đến Nam Mỹ và những nơi khác giữ cho ý tưởng đó
được lưu truyền để giúp họ nắm giữ được điều khiển của những gì
còn sót lại của đảng Quốc xã. Và cũng để gieo hy vọng cho những
người theo họ còn lại trong số đó, rằng họ sẽ một lần nữa vươn đến
quyền lực và vinh quang trở lại.
THẾ KỶ II-95
Sự thống trị
còn lại hai, họ sẽ giữ được nó trong một khoảng thời gian rất ngắn.
Ba năm và bảy
tháng trôi qua họ sẽ tham chiến. Hai vu nữ sẽ nổi dậy chống lại họ;
Người thắng
cuộc sẽ được sinh ra trên đất Mỹ.
D: Người giải
nghĩa đã không thể hiểu được từ ‘vu nữ’ Họ nghĩ rằng nó là một sự
đánh lạc hướng từ một từ khác.
B: Ông ấy nói
rằng bài thơ này có nhiều ý nghĩa nhưng tất cả chúng đều nhắc đến
một chuỗi những sự kiện có liên quan đến Đại Thế Chiến thứ II. Sự
thống trị còn lại hai nhắc đến hai kẻ độc tài chính yếu, những kẻ
mà đã cố để chinh phục thế giới, người lãnh đạo của Đế quốc Đức
và người lãnh đạo của Đế quốc Nhật. Giữa hai nước này, họ đã đang
cố để thống trị thế giới. Hitler đã đang cố để xâm chiếm Nga và
châu u, và cuối cùng ông ta sắp cố
để chiếm nước Mỹ. Người Nhật đã xâm chiếm Mông Cổ, Siberia, Trung
Quốc, ́n Độ, Úc và phần đó của
thế giới. Họ đã lên kế hoạch để hỗ trợ xâm chiếm nước Mỹ từ bờ
biển khác, để người ở phía Tây bán cầu có thể sẽ có một trận
chiến hai-đầu để đấu lại. Tuy nhiên, ông ấy nói rằng trong khi đó, ở
Mỹ, người chiến thắng, yếu tố mà để xác định phía nào của cuộc
chiến sẽ thắng, đã được chế tạo rồi. Đó là bomb nguyên tử. Đã có
hai nhà khoa học chính mà đầu óc họ đã khám phá ra được thông tin
lý thuyết cần thiết để chế tạo bomb. Trong bài thơ này, ông ấy đã
định ngày cuộc chiến này. Yếu tố thời gian có liên quan đã là từ
lúc người Mỹ tham gia vào Đại Thế Chiến thứ II. Ông ấy đang nói rằng
ba năm và bảy tháng đó sau này sẽ là khi người mỹ, gắn liền với
người chiến thắng, sẽ kết thúc cuộc chiến tranh bằng sự dội bomb.
D: Những người
giải nghĩa nói rằng “ba năm và bảy tháng trôi qua, họ sẽ tham chiến,”
có nghĩa là khi ai đó sẽ bắt đầu một cuộc chiến tranh.
B: Ông ấy nói
rằng họ đang giải nghĩa sai điều đó. Ông ấy biết mình đang nói gì.
Ba năm và bảy tháng sau là khi người chiến thắng tham gia chiến tranh.
Đó là khi bomb bước vào cuộc chiến và thay đổi khái niệm về bạo
lực vĩnh viễn. Ba năm và bảy tháng sau là khi quả bomb trước tiên
được thả xuống. Quả bomb đã được đại diện một cách ẩn dụ như một
kỵ sĩ vô địch tham gia vào trận đánh vì những đồng minh. Người vô
địch, quả bomb, trước tiên tham chiến ba năm và bảy tháng sau đó. Và
người kỵ sĩ đặc biệt này, có thể nói là thế, có thể sẽ ở quanh
đó từ nay về sau, để tác động đến chiến tranh, chính trị và bộ mặt
của cuộc chiến vĩnh viễn về sau. Bởi vì sau khi Đại Thế Chiến thứ n
kết thúc, những tác động của quả bomb đã vẫn còn được cảm nhận
thấy xuyên suốt trong cuộc chiến tranh lạnh, và trong cái cách mà mọi
thứ đã vẫn còn rất căng thẳng. Rồi thế giới đã không còn được hòa
bình như cách mà nó đã từng được hòa bình trước đấy nữa. Bởi vì
mối đe dọa về chiến tranh đã vẫn còn ở đó khởi nguồn từ ‘người kỵ
sĩ’ này, hình ảnh mà tượng trưng cho quả bomb.
D: “Hai vu nữ
sẽ nổi dậy chống lại họ” là hai nhà khoa học?
B: Phải. Hai
nhà khoa học này đã không chỉ nổi dậy chống lại những kẻ độc tài
đang cố xâm chiếm thế giới, mà họ còn nổi dậy chống lại những
đường lối cũ vào lúc đó. Có thể nói rằng cái cách mà những nhà
khoa học phác họa thế giới đã không phải là cách mà cuộc sống đã
thật sự là. Họ đã có thể phá vỡ những lối mòn tư duy và mang đến
nhiều học thuyết và cơ giới hóa (quân sự) của sức mạnh hạt
nhân.
Điều này giải
thích cách dùng từ “vu nữ” của ông ấy để tượng trưng cho các nhà
khoa học. Tôi đã khám phá ra rằng theo thần thoại La Mã, Vesta đã là
một vị nữ chúa của nền lò sưởi và lửa lò. Vào thời La Mã cổ, có
sáu vu nữ đồng trinh đã trông nom ngọn lửa thiêng trong ngôi đền của
các nàng. Đây là một ví dụ xuất sắc khác về cái cách khôn ngoan mà
Nostradamus đã dùng từ ngữ và thần thoại để tạo nên hình ảnh trong
câu đố mà ông ấy đã muốn hoàn thành. Những nhà khoa học có thể
được so sánh với những vu nữ bởi vì họ đang trông nom một ngọn lửa
linh thiêng khi họ đã phát minh ra quả bomb. Quả bomb có thể cũng được
đã được ví như một vu nữ đồng trinh vào thời đó bởi vì sự thành
công của nó đã chưa từng được chứng minh bao giờ.
D: Những người
giải nghĩa nói rằng hai thế lực sẽ là Mỹ và Nga và họ sẽ gây
chiến với nhau vào lúc nào đó trong tương lai.
B: Mỹ và Nga
sẽ tham gia chiến tranh trong tương lai, nhưng bài thơ bốn câu cụ thể
này không hề đề cập đến điều đó.
THẾ KỶ 11-89
Một ngày nào
đó hai nhà lãnh đạo vĩ đại sẽ trở thành bạn;
Quyền lực vĩ
đại của họ được chứng kiến rằng sẽ phát triển hơn.
Vùng đất mới
sẽ ở vào tầm cao của quyền lực của nó,
Đối với người
đàn ông của máu, con số được báo cáo lại.
B: Bài này
nhắc đến sự kiện về Tổng Thống Nixon của các người, thiết lập quan
hệ ngoại giao với Cộng Sản Trung Quốc. Ông ấy nói rằng họ là hai
người đàn ông của quyền lực. Và vào lúc đó, vùng đất mới – đó là,
hợp chủng quốc Hoa Kỳ – đang ở đỉnh cao của sức mạnh quân sự của
nó. Về mặt kinh tế, về mặt tài chính, đồng đô-la Mỹ đã vẫn vô cùng
mạnh ở thị trường quốc tế. Ông ấy nói rằng con số được báo cáo
lại cho người đàn ông của máu, là số người chết từ cuộc chiến tranh
Vietnam được báo cáo lại cho Tổng Thống Nixon. Một cách cụ thể,
những con số cuối cùng được báo cáo lại cho ông ấy sau khi ông ấy đã
dừng sự tham chiến của người Mỹ trong trận chiến đó.
D: Vậy ông ấy
được gọi là người đàn ông của máu bởi vì họ đã nghĩ rằng ông ấy
là người đã chịu trách nhiệm hàng đầu?
B: Ông ấy không
phải là người chịu trách nhiệm hàng đầu với nó. Điều đó nằm trên
vai của vị tổng thống trước ông ấy, Tổng Thống Johnson. Nhưng họ gọi
ông ấy là người đàn ông của máu bởi vì ông ấy là Tổng Tư Lệnh quân
đội trong suốt những năm đẫm máu nhất của cuộc chiến đó, mặc dù ông
ấy đã thành công trong việc kết thúc tham chiến, và công khai thừa nhận
sự tham gia của người Mỹ trong cuộc chiến đó.
D: Công khai
thừa nhận. Ý ông là nó đã không thực sự kết thúc.
B: Không chỉ
thế, mà những tổ chức bí mật của quyền lực Mỹ là vẫn còn can dự
vào. Họ đã chưa bao giờ trở nên không liên can trong cuộc chiến đó cả.
D: Nó vẫn đang
diễn ra như một cuộc chiến tranh âm thầm, có thể nói là thế. Điều
đó có đúng không?
B: Phải. Đó
là lý do tại sao có những khám phá rời rạc về những tù nhân Mỹ
vẫn đang bị nhốt ở đó. Bởi vì mặc dù Mỹ trên lý thuyết đã dừng
việc có liên quan và công chúng Mỹ không ý thức được những tổ chức
bí mật có liên can, những người dân ở đó lại biết được về những tổ
chức này. Và họ biết rằng chúng là những tổ chức Mỹ. Vậy nên họ
vẫn cho rằng người Mỹ đang can dự vào và vì vậy họ cho rằng việc
họ giam giữ những tù nhân Mỹ là đúng và thích đáng.
D: Tại sao
những tổ chức bí mật này vẫn đang can dự vào?
B: Lý do có
liên quan đến những phạm vi tưởng tượng của quyền lực, giữa thứ mang
nhãn mác là “nền dân chủ” và thứ được dán nhãn là “cộng sản.”
Những người lãnh đạo của những tổ chức này cảm thấy rằng nếu họ
đồng rút lui, nó sẽ gây ra một mối đe dọa cho sự cân bằng quyền lực
ở vùng đó của thế giới. Và họ không muốn điều này xảy ra.
D: Họ đã giải
nghĩa bài thơ này đang nhắc tới Mỹ và Nga. Rằng vào lúc nào đó trong
tương lai họ có thể sẽ trở thành bạn. Và họ nghĩ rằng người đàn
ông của máu có thể sẽ là kẻ Chống đối-Thiên Chúa.
B: Ông ấy nói
rằng điều đó là đúng, rằng một ngày nào đó Mỹ và Nga sẽ trở
thành bạn. Nhưng điều đó sẽ là vì nỗ lực của người đàn ông, người
mà truy lùng kẻ Chống đối-Thiên Chúa.
THẾ KỶ V-78
Cả hai sẽ
không giữ quan hệ đồng minh lâu dài;
Trong vòng
mười ba năm, họ sẽ đầu hàng quyền lực man rợ.
Sẽ có mất
mát xảy ra với cả hai bên,
Điều đó sẽ
phù hộ cho linh hồn (của Peterl và người lãnh đạo của nó.)
Ông ấy nói
rằng điều này đã diễn ra rồi. Bài này nhắc đến Mỹ và Nga sau Đại
Thế Chiến thứ II. Mặc dù họ đã là đồng minh với nhau trong suốt
cuộc Chiến Tranh Thế Giới thứ II và ngay sau đó, suốt sự đóng chiếm
của Đức, năm năm sau khi cuộc chiến tranh đã kết thúc, hai thế lực
này đã chia tách và đã ở vào những vị thế đối đầu nhau. 13 năm nhắc
đến… ông ấy nói hãy bắt đầu định ngày từ 1950 hay khoảng đó, từ
lúc hai thế lực này kết thúc quan hệ đồng minh, có thể nói vậy. 13
năm đề cập đến thời kỳ dự dội nhất của cuộc chiến tranh lạnh. Từ
lúc họ chia tách cho đến cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba khi mà nó đã
gần như nổ ra thành một cuộc xung đột. Đây là một thời của những
cuộc náo động lớn ở cả hai nước. Một nước, Nga, thì đã đang cố để
xây dựng lại sau những thương tổn từ chiến tranh và hiện đại hóa song
song đó, và điều này đã gây ra rất nhiều căng thẳng xã hội. Stalin
đã đang có những sự thanh trừ của ông ta vào lúc đó, và người dân
liên tục bị giết không vì lý do gì cả bắt nguồn từ việc cảnh sát
mật giết hại những kẻ thù người Mỹ trong tưởng tượng của họ. Cũng
như vậy, vào lúc này, nước Mỹ đã đang có một cuộc bạo động xã hội
lớn vì chứng nghi ngờ sợ hãi về cộng sản của họ, khi được khuấy
động bởi McCarthy và những người khác có suy nghĩ tương đồng. Khi
người ta kịp nhận ra thì họ đã tiến đến một khoảng cách rất gần
với sự bùng nổ thành một trận xung đột công khai, nhưng không ai ở
mức độ (tinh thần) này có thể nhận ra rằng họ đã tiến gần đến
việc tham gia vào chiến tranh công khai như thế nào. Ông ấy nói đó là
một bước ngoặc chính yếu dọc theo dòng thời gian. Một phân nhánh
chính yếu, trong đó họ sẽ đi một hướng và bắt đầu giải quyết những
vấn đề của họ và tiến tới hòa bình, hay chí ít là hiểu về nhau
đủ để có thể nói chuyện với nhau, giống như hướng họ đang đi bây
giờ. Hoặc là họ đã có thể nổ ra chiến tranh và trong tiến trình có
thể hủy hoại phần lớn châu u từ
việc ném vũ khí và bomb vào nhau. Ông ấy nói rằng bởi vì điều này
đã là một điểm phân nhánh chính yếu dọc theo dòng thời gian, nó đã
nổi bật rõ ràng và đã khá dễ dàng để ông ấy có thể nhìn thấy
được. Nó cũng chứng minh rõ ràng được rằng con người có thể thay
đổi những kết quả thuộc về tương lai của họ, đặc biệt là nếu họ
biết được những kết quả này là gì.
CẬP NHẬT: Những
sự quan sát này được đưa cho chúng tôi vào năm 1986 khi đang giải nghĩa
những bài thơ bốn câu. Nhưng vào tháng Một năm 1992 mọi thứ đã trở
nên rõ ràng rằng Nostradamus đã đúng. Năm 1962, cuộc khủng hoảng đã
được triển khai bởi sự cài đặt của tên lửa hạt nhân thuộc Liên Xô
trong vòng 800-1000 dặm. Kennedy đã nhìn nhận điều này như một mối đe
dọa cho nước Mỹ. Những tên lửa này cuối cùng đã được tháo dở sau
nhiều ngày căng thẳng, trong suốt thời gian đó Kennedy đã ở dưới áp
lực nặng nề để xâm chiếm Cuba. Tướng Liên Xô A.I. Gribkov đã thông báo
rằng trong suốt cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, Liên Bang Xô Viết cũng
đã gởi vũ khí hạt nhân tầm ngắn tới Cuba (với tầm ngắm khoảng 400
dặm) và cho phép chúng được sử dụng chống lại mọi lực lượng xâm
lăng của Mỹ. Ông ấy đã nói rằng hai thế lực hùng mạnh vào lúc đó
đã bị kéo gần đến chiến tranh hạt nhân hơn người ta từng nghĩ đến
trước đó. Robert McNamara, thư ký quốc phòng của Tổng Thống John F.
Kenndy, đã nói rằng ông ấy đã không biết gì về sự hiện diện của
những tên lửa đạn đạo tầm ngắn ở Cuba vào lúc đó. Nhưng ông ấy đã
vô cùng chắc chắn rằng Kennedy đã ra lệnh trả đũa hạt nhân đối với
Cuba và có lẽ là với cả Liên Bang Xô Viết – nếu vũ khí hạt nhân đã
được dùng chống lại lực lượng Mỹ. Một người phát ngôn đã nói rằng,
“Chúng ta đã tiến gần đến chiến tranh hạt nhân hơn bất cứ ai từng
tưởng tượng. Hoàn toàn không cần hỏi về việc chúng ta đã ở ngay trên
bờ vực của điều đó.”
D: Trong bản
tiếng Pháp, từ Barque được viết hoa. Nó nói rằng, “họ sẽ phù hộ
linh hồn (bark).”
B: Ông ấy nói
rằng một người đàn ông mà một đất nước khác sẽ đem đến cho nước mỹ
có thể sẽ công nhận những nỗ lực của giáo hoàng của Nhà thờ Công
giáo, trong việc cố gắng thiết lập nền hòa bình giữa hai nước, cũng
như cố gắng để can thiệp trong những cuộc chiến có vũ trang khác.
Nga, tự nhận là một đất nước vô thần, có thể sẽ nghi ngờ mọi thứ
mà Nhà thờ Công giáo sẽ làm, nghĩ rằng nó là một thủ đoạn tư bản
mà thôi. Trong khi đó nhà tư bản, cái-được-gọi là đất nước Thiên
Chúa giáo, hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ công nhận những sự nỗ lực,
nghĩ rằng đây là một bên thứ ba, mà có thể khách quan một chút và
hỗ trợ họ giải quyết những vấn đề của họ. Tôi có cảm giác rằng
giáo hoàng mà ông ấy đang đề cập tới là giáo hoàng hiện tại người
mà có vẻ như khá là có liên quan đến chính trị và đang cố để khiến
hòa bình thế giới có thể xảy ra. Vâng, ông ấy nói rằng cảm giác
của tôi là chính xác. Một lý do khác tại sao ông ấy nói rằng ông ấy
lại ví ông ta như một thuyền ba buồm (Barque) là bởi vì nó là một
loại thuyền, thứ mà du hành. Và vị giáo hoàng này sẽ không sống ở
tu viện ở tòa thánh Vatican.
(*Ghi chú:
Nostradamus sử dụng phép chơi chữ giữa từ bark (Bark) và Barque trong
bài thơ.)
D: Phải, điều
đó có lý đấy. Vị này du hành khắp mọi nơi.
UPDATE: Nó
được tiết lộ vào năm 1992 rằng vị giáo hoàng hiện tại đã có liên
can đến những đàm phán chính trị với hợp chủng quốc Hoa Kỳ và
những nước Cộng Sản trong quá khứ. Một phát hiện như vậy đem lại cho
bài thơ bốn câu này nhiều tin cậy hơn.
Nó đã được tiết lộ rằng Tổng Thống Reagan đã phê chuẩn một
chương trình bí mật để giúp đỡ cho phong trào đoàn kết ngoài vòng
pháp luật của Ba Lan cách đây một thập kỷ sau khi hội ý cùng với
Giáo hoàng John Paul II và một cuộc tranh luận sôi nổi giữa các chuyên
viên hành chính quốc gia.
D: Họ đã giải
nghĩa bài này như là về một liên minh giữa Mỹ và Nga, thay vì là về
thời gian mà họ đã đang chia rẽ nhất.
B: Ông ấy nói
hãy tiếp tục sang bài thơ kế đi, những sự giải nghĩa này thật là
lố bịch.
THẾ KỶ IV-28
Khi sao Kim sẽ
bị che khuất bởi Mặt Trời, dưới sự huy hoàng là một dạng thức được
ẩn giấu.
Sao Thủy sẽ
đưa chúng vào đám cháy, bằng một tin đồn rằng chiến tranh sẽ được
đối mặt (*người dân đối mặt với chiến tranh)
B: Ông ấy nói
rằng trong bài thơ cụ thể này, không phải mọi sự đề cập mà nghe có
vẻ như thuộc về chiêm tinh học là nhất thiết phải như thế. Ông ấy
đang gặp khó khăn trong việc làm rõ nghĩa những khái niệm nhưng ông ấy
sẽ cố gắng. Ông ấy nói rằng bài thơ này có nhiều nghĩa. Một trong
những sự giải nghĩa đề cập tới một sự kiện mà đã xảy ra rồi. Nó
là một sự kiện mà trên thực tế đã xảy ra rồi, nhưng vào lúc nó
xảy ra, nó đã được xem như một tin đồn hơn là một sự kiện thực tế.
Một khía cạnh của bài thơ này có liên quan đến chương trình không gian
của Nga. Ông ấy nói rằng trở lại thời những năm đầu thập niên bảy
mươi, khi Nga và Mỹ đã đang cố vượt qua nhau về những thành tựu trong
những chuyến bay vào không gian, đặc biệt là những chuyến bay vào
không gian có người, Nga đã bắt tay vào một dự án đầy tham vọng. Họ
đã quyết định rằng bởi vì họ đã chưa từng thành công trong việc có
một chuyến du hành có người đến mặt trăng, trong tiến trình cố gắng
an ủi sự tổn thương lòng tự trọng của mình, họ biện luận rằng họ
sẽ làm điều gì đó tốt hơn và không lo nghĩ tới mặt trăng nữa. Họ
đã nỗ lực để gởi một chuyến bay có người đến sao Kim. Ông ấy nói
rằng khi họ làm điều đó, liên lạc đã bị phá vỡ trong một khoảng
thời gian và con tàu đã được đoán chừng rằng đã bị thất lạc hay bị
hủy diệt. Vào phút cuối, giao tiếp đã được tái thiết lập chỉ trước
lúc con tàu nổ tung trong bầu khí quyển của sao Kim. Ông ấy nói rằng
vào lúc đó Mỹ đã nghi ngờ liệu nó đã xảy ra hay không, nhưng họ đã
đang nghĩ rằng nó có thể đã là một thủ đoạn tuyên truyền vì người
Nga. Đây đã là khoảng thời gian mà quan hệ ngoại giao giữa hai đất
nước đang vô cùng mỏng manh.
Nostadamus đã
nhìn thấy rằng tai nạn tàu Challenger đã không phải là một vụ bi
kịch không gian riêng rẽ một mình. Nó chỉ là vụ được công khai nhiều
nhất mà thôi. Ông ấy đã nhìn thấy những nhà du hành vũ trụ đã bị
lạc mất từ thuở ban đầu của công cuộc thăm dò không gian, bởi không
chỉ Mỹ, mà Nga và những nước khác nữa. Ông ấy đã nói rằng, không
được biết đến bởi thế giới bên ngoài, những nước khác bên cạnh hai
cường quốc đã đang tiến hành thí nghiệm không gian vào thuở sơ khai
của công cuộc du hành không gian. Nhiều trong số họ đã dừng lại việc
thí nghiệm sau những hậu quả thảm khốc. Nostradamus đã báo cáo lại
rằng nhiều trong số những chuyến bay được-gọi-là “không người” thực
tế đã có chứa những phi hành gia, những người mà đã chết hoặc bị
thất lạc trong không gian trong những nhiệm vụ bất thành. Những tai
nạn này đã không bao giờ được công bố vì những lý do hiển nhiên. Khi
tôi nghĩ đến điều này, tôi đã nhớ lại những tin đồn vào những năm
đầu 1970s trong đó những cuộc đổ bộ nhẹ nhàng lên sao Kim đầu tiên
của Xô Viết thật sự đã chứa những phi hành gia, những người mà đã
chết. Đã có rất nhiều phỏng đoán vào lúc đó bởi vì những sự phát
sóng radio bí ẩn. Nhưng không có bằng chứng nào đã từng được đưa ra
bao giờ và những phỏng đoán này đã chỉ giữ nguyên là những tin đồn
mà thôi. Có phải Nostradamus đã nhìn thấy những gì thật sự đã xảy
ra trong vài nhiệm vụ ngoài không gian này hay không?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.