Phần Hai
Giải Nghĩa
CHƯƠNG 9
Bản dịch bắt đầu
D: Tôi có nên
đếm không, hay là cô sẽ có khả năng chỉ việc đi đến đó thôi và xem
liệu cô có thể tìm thấy ông ấy qua tấm gương hay không?
B: Ngồi yên
lặng và quán chiếu (thiền) về thứ gì đó một chút và tôi sẽ có
thể đi đến đó và làm điều đó. Tôi sẽ cho bà biết khi mọi thứ được
sẵn sàng. Tôi đang tập trung vào nơi cư ngụ của ông ấy bây giờ. Ông ấy
đang ở trong – tôi sẽ gọi nó là phòng thí nghiệm của ông ấy. Nó là
một sự kết hợp giữa phòng thí nghiệm và phòng học. Ông ấy đang ở
trong đó, tập trung vào chiếc gương. “Michel de Notredame, tôi đã quay
trở lại. Đã đến giờ chúng ta gặp nhau lần nữa rồi, nếu đó là điều
ông muốn.” (Dừng) Ông ấy nói rằng ông ấy sẽ gặp chúng ta ở nơi gặp
gỡ. (Dừng) Được rồi. Tôi đang ở đó, và ông ấy cũng đang ở đây bây
giờ.
Ông ấy nói
rằng hãy đọc bài thơ bốn câu và dừng lại một chút giữa mỗi dòng
để cho người giao tiếp có thể tiếp thu tốt những cụm từ để ông ấy
có thể giao tiếp về những phạm trù.
D: Tôi biết cô
sẽ cố gắng giải nghĩa theo thuật ngữ của chúng ta. Nhưng hãy nói
với tôi trước về cách mà ông ấy diễn đạt nó, để tôi có thể hiểu
được cách mà ông ấy đang nghĩ một cách tốt hơn.
B: Ở nơi đặc
biệt này chúng ta đang không hề dùng đến bản thân những từ ngữ. Tôi
nói “ông ấy nói điều này và đại loại” và tôi thực sự có ý rằng
ông ấy giao tiếp điều này và đại loại. Ông ấy nào giờ đã vẫn luôn
giao tiếp hầu hết bằng những hình ảnh trong đầu với một cảm nhận
về từ ngữ hàm ẩn dưới (những hình ảnh) đấy, nếu điều đó có lý. Tôi
sẽ làm tốt nhất có thể. Ông ấy nói rằng mỗi một chút đều giúp
ích được. Ông ấy sẽ không phiền nếu những chút đó phải là nhỏ thôi,
bởi vì nó thực sự tiêu hao sức lực của ông ấy để đến được nơi này.
Vậy nên ông ấy nói rằng miễn là chúng ta giữ nó được đều đặn, công
việc sẽ được hoàn thành.
D: Tôi ước gì
có một cách nhanh hơn để làm những điều này.
B: Ông ấy nói
rằng nếu nó vốn đã định để được hoàn thành, nó sẽ được hoàn
thành. Rằng chúng ta có thể chỉ cần di chuyển ở một tiến độ thoải
mái và tất cả chúng ta tham gia vào điều này sẽ thực hiện một cách
tốt nhất mà chúng ta có thể.
D: Ông ấy có
muốn tôi bắt đầu ở phần đầu tiên của quyển sách không, hay là chỉ
cần chọn ra vài bài thơ bốn câu ngẫu nhiên hay thế nào?
B: Để tôi hỏi
ông ấy. (Dừng) Để bắt đầu, hãy chọn một bài mà mình cảm thấy như
nó đúng là bài để bắt đầu. Ông ấy nói rằng hãy để cơ thể và tâm
trí được tĩnh lặng và nhìn vào trong phần cốt lõi nội tại của
chính bà, đó là nơi mà mọi sự thông thái trú ngụ. Và bằng cách đi
theo sự hướng dẫn của phần này, bà sẽ có khả năng chọn được bài
đúng. Ông ấy đang lặp đi lặp lại. Tôi không thực sự hiểu nhưng đó là
những gì ông ấy nói.
D: Tôi muốn
nói với ông ấy rằng quyển sách mà tôi đang dùng có tiếng Pháp và
phần dịch nghĩa tiếng Anh trong nó, và nó được phân chia theo những
thế kỷ. Nó có mười thế kỷ và mỗi thế kỷ có 100 bài thơ bốn câu.
Đó có phải là cách ông ấy dự định làm không?
B: Ông ấy nói,
“Dĩ nhiên, đó là cách mà tôi đã sắp xếp nó. Đó là cách mà tôi đã
sắp xếp chúng trong bản thảo viết tay.”
D: Tôi đã nghĩ
có lẽ điều này có thể là một sự sắp xếp mà ai đó đã bố trí sau
này.
B: Ông ấy nói,
“Tôi lặp lại rằng đó là cách mà tôi sắp xếp chúng trong bản thảo
viết tay.”
D: Nhưng một thế
kỷ không có một trăm bài trong đó.
B: Không. Ông
ấy nói rằng ông ấy biết điều đó. Ông ấy đã sắp xếp nó theo những
thế kỷ cho tiện lợi. Nhưng không phải tất cả mọi thế kỷ đều đã
được hoàn thành bởi vì ông ấy đã không thể làm rõ được những kênh
thời gian để thu thập tất cả chúng.
D: tôi chỉ
muốn chắc chắn rằng nào giờ chưa có ai làm xáo trộn nó. Vậy điều
đó sẽ cho chúng ta khoảng gần một nghìn bài. Đó là lý do tại sao
nó sẽ thật khó khăn để bắt đầu vào lúc đầu và xem qua hết. Điều
đó sẽ tốn nhiều thời gian kinh khủng đấy.
Sau đó điều
này chính xác là những gì mà chúng tôi cuối cùng cũng làm. Sau khi
chọn ngẫu nhiên ra một trăm bài thơ, chúng tôi đã quyết định trở nên
có tổ chức hơn. Vào lúc đó, tôi đã bắt đầu từ đầu của quyển sách
và chọn chúng theo thứ tự. Thậm chí việc sử dụng tiến trình đó,
có vẻ như cũng không có một thứ tự có lô-gic nào cả, xét về mặt
liên tục về thời gian mà nói.
D: Ông ấy sẽ
có thể nói thêm chi tiết sau đó mà không dùng những bài thơ bốn câu
chứ? Hay là ông ấy cần chúng để tập trung vào, có thể nói là vậy?
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy nghĩ mình rất có thể sẽ cần chúng để giúp ông ấy tập
trung vào, bởi vì ông ấy đang phải giao tiếp theo một cách gián tiếp.
Thỉnh thoảng ông ấy có thể sẽ có khả năng ứng khẩu nhưng ông ấy nói
rằng ông ấy sẽ không phụ thuộc vào nó.
D: Vậy chúng
ta vẫn cần những bài thơ bốn câu để giúp ông ấy nhớ lại những gì
ông ấy đã nhìn thấy từ trước đến giờ.
B: À, - không
nhất thiết là giúp ông ấy nhớ lại những gì ông ấy đã nhìn thấy mà
để giúp ông ấy tập trung vào theo một cách mà tôi có thể giao tiếp
được về những gì ông ấy đang cố nói. Ông ấy nói rằng ông ấy thỉnh
thoảng sẽ nghe khá khiếm nhã, nó không phải vì ông ấy có điều gì
đó bất bình một cách cá nhân với bà hay tôi, người giao tiếp. Nó
chỉ là ông ấy đang cố gắng để hoàn thành công việc mà thôi. Ông ấy
nói rằng thỉnh thoảng bà cho vào quá nhiều bình luận không liên quan
giữa những bài thơ hay trong khi ông ấy đang cố nghĩ. Nếu thỉnh thoảng
ông ấy bảo bà dừng lại, nó không phải bởi vì ông ấy đang hung dữ,
bởi vì ông ấy thật sự vô cùng biết ơn về sự kết nối giao tiếp này.
Nó chỉ là có quá nhiều thông tin để liên kết lại đến nỗi thỉnh
thoảng ông ấy trở nên thiếu kiên nhẫn. Đặc biệt là khi ông ấy đang cố
để liên kết với một ý tưởng và để nói, và bà cũng đang nói. (Tôi
đã xin lỗi.)
Ông ấy nói
rằng đừng lo lắng gì về điều đó. Bất cứ khi nào những thực nghiệm
mới được thử nghiệm, nhiều thứ phải được tìm ra. Nếu có vài thứ
mà ông ấy không hiểu, ông ấy sẽ hỏi về nó. Và ông ấy nói bà không
cần phải xin lỗi quá nhiều.
D: Được rồi.
Nhưng tôi đã rất ngưỡng mộ ông ấy và tôi không muốn ông ấy trở nên
giận dữ với tôi.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy rất vui mừng khi có được những người đồng hành.
D: Nó thật
không tốt chút nào khi làm điều này một mình, phải không?
B: Ông ấy nói
rằng nó có thể được hoàn thành, nó chỉ là khó hơn mà thôi.
D: Ý tôi là… nó cô đơn đấy.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy bị làm phiền và lo lắng về những thứ cao cả hơn, ông ấy
không lo lắng về sự cô đơn.
Đã có nhiều
sự thử nghiệm và thất bại vào lúc khởi đầu khi tôi đầu tiên, đã
bắt đầu trình bày những bài thơ bốn câu với ông ấy để giải nghĩa.
Sau rất nhiều sự vụng về, tôi đã biết được tiến trình mà ông ấy đã
muốn dùng. Trong thời gian này tôi đã bắt đầu biết khi nào ông ấy
đang giao tiếp trong tâm trí với Brenda và tôi đã được bảo rằng vui
lòng ngừng nói nhiều và chen ngang. Tôi đã được hướng dẫn để đọc
bài thơ bốn câu một cách chậm rãi, dừng giữa mỗi dòng. Nếu có
những từ nào ông ấy không hiểu, và có nhiều từ lắm, tôi sẽ đánh
vần chúng cho ông ấy bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp. Những từ này
thường là tên riêng hay những từ mà ông ấy đã dùng cho phép đảo chữ.
Sau đó tôi sẽ thường được yêu cầu lặp lại bài thơ một lần nữa. Sau
đó tôi sẽ chờ một vài giây để sự giải nghĩa bắt đầu xảy ra. Tôi
phải kiềm lại câu hỏi của mình nhiều lần bởi vì ông ấy đã không
thích những dòng suy nghĩ của ông ấy bị cắt ngang. Tôi tự hỏi đầu
tiên liệu tôi có đã xúc phạm ông ấy bằng những sự nỗ lực vụng về
của tôi hay không, nhưng ông ấy đã nói rằng nó không phải là vấn đề.
Ông ấy đã quá gay gắt bởi vì ông ấy đã đang cố để hoàn thành thật
nhiều thứ trong một thời gian giới hạn.
Nó thật đáng
kinh ngạc rằng tôi đã chấp nhận dự án hiếm có này một cách nhanh
chóng làm sao. Những thứ kỳ lạ đã trở nên bình thường một cách dễ
dàng như thế nào. Nó dường như sớm trở nên bình thường để trò
chuyện với Nostradamus xuyên qua 400 năm của thời gian và không gian, như
là nói chuyện với một người hàng xóm bằng điện thoại vậy.
Sau những buổi
thôi miên đầu tiên, những bản dịch trở nên chi tiết hơn nhiều. Vào lúc
mới bắt đầu, tôi đã chỉ có khả năng thực hiện bốn bài thơ trong một
buổi. Sau đó, khi chúng tôi đã ổn định vào một khuôn mẫu, chúng tôi
đã có thể xử lý khoảng sáu đến tám bài và thỉnh thoảng nhiều đến
mười bài.
Những bài thơ
bốn câu đầu tiên mà tôi đã dùng cho cuộc thực nghiệm này đã được
chọn ra một cách ngẫu nhiên. Tôi đã chọn những bài mà đã gây ấn
tượng với tôi vì vài nguyên do. Tôi đã bị hấp dẫn bởi những bài khó
nhất, những bài thơ mà những chuyên gia đã chưa bao giờ có thể tìm
được bất kỳ lời giải thích nào về chúng. Tôi đã nghĩ rằng điều đó
sẽ làm cho dự án này thậm chí còn trở nên thử thách hơn. Tôi cũng
chọn ra những bài mà những người dịch nghĩa đã nghĩ rằng chúng
được gắn liền với tương lai của chúng ta. Sau khi hoàn thành một trăm
bài, tôi đã trở nên có tính hệ thống hơn và đã bắt đầu tại phần
đầu tiên của quyển sách và tiếp tục theo một cách có tổ chức hơn.
Cho tới lúc đó, chúng tôi đã trở nên quá thành thạo về việc này
đến nỗi chúng tôi đã giải nghĩa nhiều đến khoảng 30 bài thơ trong
một buổi thôi miên dài một giờ.
Tôi chưa bao
giờ nghi ngờ rằng tôi thật sự liên lạc được với Nostradamus thuộc thế
giới vật lý, trong khi ông ấy vẫn còn sống trong kiếp sống của ông
ấy ở Pháp vào những năm 1500s bởi vì ông ấy có những giới hạn vật
lý áp đặt lên mình. Ông ấy chỉ có thể liên lạc với tôi được khoảng
một giờ trước khi ông ấy phải quay trở lại với cơ thể vật lý của
mình. Ông ấy rõ ràng khá mệt mỏi dần về cuối buổi, và nói rằng
ông ấy phải rời đi. Thỉnh thoảng ông ấy rời đi khá bất ngờ mà không
có một sự cảnh báo trước nào cả. Vào những lúc này, tôi nghi ngờ
rằng ông ấy đã trở nên quá chìm đắm vào đến nỗi ông ấy đã vô tình
ở lại quá hạn mức thời gian cho phép của ông ấy. Hoặc là thứ gì
đã có thể đã xảy ra với sự kết nối ở phía của ông ấy, điều mà
đã kéo ông ấy trở lại với cơ thể của mình.
Ông ấy đã nói
rằng nếu ông ấy ở quá lâu thì ông ấy sẽ có những triệu chứng vật
lý, những cơn đau đầu và chóng mặt trong suốt toàn bộ phần còn lại
của ngày hôm đó. Nhưng ông ấy khá sẵn lòng để chịu những điều này
nếu điều đó làm cho công việc được hoàn thành. Bởi vì tôi hẳn sẽ
không muốn gây ra cho ông ấy bất kỳ sự khó chịu nào, tôi tôn trọng
những yêu cầu của ông ấy. Tôi đã không thể giữ ông ấy lại ở đó dù
sao đi nữa, bởi vì khi ông ấy sẵn sàng để đi, ông ấy chỉ việc rời đi
thôi. Tôi biết điều này không xảy ra bởi vì đối tượng nghiên cứu
(phương tiện) của tôi, Brenda đang mệt, bởi vì thường sau khi Nostradamus
đã trở lại với cơ thể vậy lý của ông ấy trong phòng thí nghiệm của
ông, chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc với thứ gì đó khác.
Một khi sự
liên lạc ban đầu được thiết lập và những chỉ dẫn được làm theo một
cách cẩn thận, nó trở thành một nhiệm vụ dễ dàng đến kinh ngạc,
để gặp được Nostradamus ở nơi gặp gỡ đặc biệt của chúng tôi. Từ đó
chúng tôi đã bắt đầu một dự án khá tham vọng, một dự án mà tôi sẽ
không bao giờ xung phong thực hiện: sự giải nghĩa những bài thơ bốn
câu của ông ấy thành ngôn ngữ hiện đại ngày nay.
Elena đã bị
cản trở (*về tâm lý) khi tiếp nhận và truyền đạt lại những ý nghĩa
của ông ấy bởi vì cô ấy cũng đã đang nhìn vào những lời tiên tri từ
góc nhìn thuộc về thế kỷ thứ 16 của học trò ông ấy, Dyonisus, Những
thứ mà Nostradamus đưa cho anh ấy xem đã vô cùng bí ẩn và đáng sợ,
và anh ấy không thể tìm được từ ngữ nào trong kinh nghiệm hạn chế
của mình để miêu tả chúng một cách chính xác. Anh ấy đã phải đi
đến kết quả là những hình ảnh ẩn dụ thô để cố truyền đạt lại
những ý nghĩa. Brenda đã không bị cản trở lắm. Cô ấy không hề can dự
và bị trói buộc vào một cuộc đời như Dyonisus đã từng. Cô ấy đã
đang nói từ một trạng thái ở-giữa-những-cuộc-đời, nơi mà góc nhìn được
mở rộng và giãn ra rất nhiều. Cô ấy vì vậy hẳn sẽ có một sự nhìn
nhận tốt hơn và sự thấu hiểu về bất cứ linh ảnh hay phép ẩn dụ
nào mà cô ấy được đưa cho xem. Cô ấy hẳn sẽ có khả năng cung cấp
những từ ngữ hiện đại cho những thứ mà không có tên gọi gì cả ở
thời của Nostradamus. Bằng cách này, có lẽ chúng tôi cuối cùng đã
có thể lý giải được những câu đố của ông ấy và hiểu được chiều sâu
chân thật và những sức mạnh tuyệt vời của người đàn ông phi thường
và xuất sắc này.
Tôi sẽ bắt
đầu với những nỗ lực vụng về của chúng tôi trước. Những kết quả
là thực sự đáng kinh ngạc cho dù chúng tôi đã đang làm thực nghiệm
và cố gắng tìm ra một khuôn mẫu và tiến trình làm việc.
Hai bài đầu
tiên trong quyển sách khá dễ để bất kỳ ai cũng có thể giải nghĩa
được, nhưng tôi sẽ đặt chúng ở đây, ở phần đầu tiên, vì cùng một lý
do mà Nostradamus đã bắt đầu quyển sách của ông ấy với chúng.
THẾ KỶ I-I
Ngồi một mình
trong đêm trong sự nghiên cứu bí mật; nó được đặt trên một chiếc giá
ba chân bằng đồng. Một ngọn lửa nhỏ xuất hiện từ hư không và khiến
những điều không nên được tin tưởng một cách vô ích trở thành hiện
thực.
B: Ông ấy nói
rằng nó đơn giản là một sự miêu tả về những gì ông ấy làm trong
phòng thí nghiệm của mình. Ông ấy đặt bài này đầu tiên như một lời
giải thích từ đâu mà ông ấy lấy được những thứ mà ông ấy đang viết
về.
THẾ KỶ 1-2
Chiếc đũa
trong tay được đặt ở giữa những chiếc chân của giá đỡ.
Với nước, anh
ta tưới lên cả viền áo và chân mình.
Một giọng
nói, nỗi sợ; anh ta run rẩy trong chiếc áo choàng của mình.
Huy hoàng
tuyệt diệu, chúa trời ngồi cạnh bên.
B: Ông ấy nói,
như trên. Bài thơ đầu tiên giải thích về những dụng cụ của ông ấy và
bài thứ hai giải nghĩa về việc ông ấy đã bắt đầu quá trình trở nên
cởi mở với những cõi thế khác như thế nào.
D: Những người
giải nghĩa đã nói rằng Nostradamus sợ quyền lực mà ông ấy đã khẩn
cầu khi nó đến với ông ấy. “Một giọng nói, nỗi sợ, anh ta run rẩy
trong chiếc áo choàng của mình.” Họ đã nghĩ rằng điều này có nghĩa
là ông ấy sợ những thứ mà ông ấy đã nhìn thấy này.
B: Uh-ồ! Ông
ấy thực sự giận dữ với bản dịch đó đấy. Ông ấy nói rằng sợ không
có nghĩa là kinh sợ, sợ có nghĩa là kính sợ (kính trọng, nể sợ).
Ông ấy nói rằng ông ấy đã ở trong đỗi kính sợ kỳ vĩ về những gì
ông ấy nhìn thấy bởi vì ông ấy không hiểu tất cả những gì đang xảy
ra. Nhưng ông ấy nói rằng ông ấy không hề sợ hãi, ông ấy chỉ là kính
nể mà thôi. Và ông ấy biết rằng ông ấy phải làm việc một cách cẩn
trọng để chắc chắn rằng ông ấy không hề phạm sai lầm.
THẾ KỶ 111-92
Thế giới đang
ở rất gần khoảng thời gian cuối của nó,
Sao Thổ sẽ
một lần nữa quay lại chậm trễ.
Đế chế sẽ
chuyển đổi theo đất nước Brodde;
Một con mắt ở
Narbonne bị moi ra bởi một con chim ó.
B: Ông ấy đang
tổ chức lại những suy nghĩ và khái niệm để truyền đạt lại cho tôi,
để tôi có thể nói về chúng một cách rõ ràng. Ông ấy nói rằng làm
việc thông qua một người thứ ba, ý là chính tôi đây, ông ấy phải cố
gắng để giảm thiểu tối đa mọi sự rối rắm trong giao tiếp. (Dừng) Ông
ấy nói rằng trong bài thơ này, ông ấy đang nhắc tới một giai đoạn mà
có một cuộc chiến tranh. Và sự kiện xảy ra gần cuối cuộc chiến
này, vào những giai đoạn cuối, khi sao Thổ một lần nữa chậm trễ. Ông
ấy nói câu đó có nghĩa kép. Một mặt, nó đề cập đến một sự kiện
thuộc chiêm tinh học của sao Thổ đang nghịch hành, để giúp thu hẹp
phạm vi thời gian có liên quan. Nó cũng nhắc tới vài kỹ thuật trong
cuộc chiến này. Trong cuộc chiến tranh này, cũng giống như trong mọi
cuộc chiến, có những bước tiến vĩ đại đã đạt được trong nghiên cứu
khoa học, cả nghiên cứu về vũ khí và những thứ tương tự. Trong cuộc
chiến này, những nhà khoa học đang nghiên cứu về việc làm cách nào
để làm lệch đi và thay đổi thời gian để giúp thay đổi vài sự kiện,
để quay cuộc chiến về phía có lợi cho họ. Và họ đã thất bài một
lần nữa. Như một hậu quả tất yếu
của sự thất bại này, toàn bộ khu nghiên cứu liên hợp bị hủy diệt
trong một thảm họa lớn. Đó là một con mắt bị moi ra bởi một con chim
ó. Bởi vì họ đang đối phó với những sức mạnh, họ không biết làm
cách nào để điều khiển được nó và nó đã xé toạc họ ra. Những
người không có mặt ở đó cho rằng họ đã bị đâm vào bởi một loại tên
tên lửa bởi vì sức hủy diệt to lớn. Nhưng những gì đã xảy ra đó là
những xoáy năng lượng mà họ đang cố gắng xử lý đã không được điều
chỉnh đủ tốt để có thể làm việc được với nó và họ đã bị mất
kiểm soát hoàn toàn. Những từ đó Narbonne (phát âm: Nar-bone) và
Brodde (phát âm: Broadda) gắn liền với tên nước và nơi chốn. Nhưng ông
ấy đã nói rằng những gì ông ấy biết được đó là chính phủ có liên
can là thủ đoạn nhất, và chính phủ có những cái tên giả cho nhiều
thứ. Tôi nghĩ ý ông ấy là “mật hiệu” ở đây, và những gì ông ấy đã
nhận được là những mật hiệu khi ông ấy nhìn thấy điều này. Tôi đang
cố gắng tìm ra từ ông ấy liệu ông ấy có ý tưởng gì về vị trí của
những nơi này. Ông ấy đã nói rằng ông ấy đang tập trung vào nó để
xem liệu ông ấy có thể nói với tôi không. (Dừng khá lâu.) Ông ấy nói
rằng nó khó làm lắm bởi vì hình ảnh mà ông ấy luôn có được về sự
kiện này đó là khu nghiên cứu liên hợp nơi mà họ đã đang tiến hành
nó. Ông ấy nói rằng với ông ấy, có vẻ như nó có liên can đến Anh và
Bắc u (Northen Europe). Narbonne là
tên một nơi, thành phố gần nơi nó xảy ra. Tôi tin rằng cả hai tên đều
là phép đảo chữ, từ cái cách mà ông ấy đang nói. Ông ấy cảm thấy
khó mà làm rõ được khái niệm về những nơi chốn đặc trưng này cho
tôi bởi vì ông ấy đang nghĩ dưới dạng phép đảo chữ, mà phép đảo
chữ thì không có vẻ như sẽ là những khái niệm rõ ràng bao giờ.
D: Ông ấy có
ý tưởng gì về khi nào thì điều này sẽ xảy ra không?
B: Ông ấy nói
rằng nó vẫn ở trong tương lai của chúng ta nhưng nền tảng của nó đã
được thiết lập sẵn rồi. Những nhà khoa học làm việc trong những dự
án bí mật đã đang làm việc theo hướng này rồi, nhưng sẽ mất một
khoảng thời gian nữa, trước khi có bất kỳ kết quả gì từ nó. Ông ấy
đã nói rằng có thể có kết quả gì đó nội trong kiếp sống của
chúng ta, nhưng chúng ta sẽ không biết được về nó bởi vì chính phủ
sẽ giữ kín (mọi thông tin) về nó.
D: Trong phần
giải nghĩa, họ nghĩ rằng Brodde là một từ Pháp cổ, có nghĩa là đen
hay nâu sậm. Bỏi vì ông ấy đã dùng từ đó, họ nghĩ rằng bài thơ bốn
câu có liên quan tới những nước châu Phi hay người da đen.
B: Ông ấy nói
rằng điều này không đúng. Ông ấy đang cười khúc khích lúc này. Ông
ấy nói rằng ông ấy đã dùng từ đó có mục đích bởi vì nó thực sự
giống từ dùng để chỉ một màu tối, nhưng nó trên thực tế là một
phép đảo chữ cho một tên của nơi chốn. Ông ấy không muốn đi vào chi
tiết quá, bởi vì ông ấy không muốn khiến nó trở nên quá dễ dàng
với Tòa Án Công giáo và những kẻ ồn ào khác để tìm ra được những
gì ông ấy đang nói về.
D: À, điều
này cho thấy sự khó khăn mà chúng ta nào giờ đã có khi cố gắng
hiểu những bài thơ bốn câu của ông ấy. Chúng ta đã tạo được một
khởi đầu, dù sao đi nữa.
B: Vâng. Ông ấy
nói những sự khởi đầu luôn khó khăn mà. Nhưng khi chúng ta làm việc
cùng nhau như một đội nhóm, chúng ta sẽ quen với cách suy nghĩ của
mình và chúng ta sẽ có thể làm việc tốt hơn. Lần này cả bà và tôi
đều đang cố gắng vất vả để giao tiếp bởi vì tôi không có một sự
tiếp nhận hình ảnh của ông ấy ngày hôm nay như tôi đã từng có trước
đó. Tuy nhiên, với tôi tập trung vào và ông ấy tập trung vào, ông ấy
đã truyền tải rõ được hình ảnh của những gì ông ấy đang cố nói.
Ông ấy gởi cho tôi hình ảnh của một phần của khu nghiên cứu liên hợp
nơi sự kiện này sẽ diễn ra.
D: Nó sẽ tác
động tới toàn bộ phần còn lại của thế giới hay là chỉ vùng đó
thôi?
B: Cân nhắc
nội trong vấn đề về thảm họa thôi, thì nó sẽ có tác động vào một
địa phương và sẽ có những tác động phụ kỳ lạ trong chiều thời gian
tại khu vực chung ở đó. Ông ấy thực sự không thể mô tả nó và thực
sự không thể nói cho chúng ta biết làm cách nào để chuẩn bị cho
điều này bởi vì nó rất kỳ quái. Nhưng ông ấy đã nói rằng cuối
cùng nó cũng sẽ có những ảnh hưởng sâu rộng bởi vì chính phủ đang
dựa vào tuyến nghiên cứu đó để giành được lợi thế trong cuộc chiến
này. Và vài lợi thế đã bị tước đi và sau cùng nó sẽ ảnh hưởng
tới kết quả của cuộc chiến.
D: Ông ấy có
biết đây là cuộc chiến nào không?
B: Cuộc Chiến
thứ ba, ông ấy nói. Cuộc chiến thứ ba.
D: Tôi đã không
biết rằng chúng ta đang sắp có một cuộc chiến khác nữa. Tôi đang hy
vọng rằng chúng ta sẽ không có.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy nào giờ đã thấy vài cuộc chiến mà chúng ta có thể sẽ
có, và ông ấy đang hy vọng có thể giúp chúng ta ngăn chận được vài
trong số chúng.
D: Ông ấy có thể
nhìn thấy những nước nào sẽ tham chiến không?
B: Ông ấy nói
rằng nó sẽ có liên quan tới Bắc bán cầu và một chút của Nam bán
cầu. Tôi đang cố tìm xem phần nào của Nam bán cầu. Tôi đang nghĩ ông
ấy có ý nói tới Úc bởi vì ông ấy cứ nói một phần của Nam bán
cầu có liên quan đến một hòn đảo.
Đây là lần đề
cập đầu tiên về cuộc chiến tranh này. Trong vài tháng tiếp theo, tôi
sẽ tìm ra nhiều hơn là tôi đã thoải mái muốn biết về nó. Thông tin
này được trình bày trong những chương về Kẻ chống đối ----- Thiên
Chúa đáng ghê sợ.
THẾ KỶ II-62
Mabus sẽ sớm
chết đi và sẽ có một sự hủy diệt con người và động vật kinh khiếp.
Bất thình
lình sự báo thù sẽ bị lộ ra, một trăm bàn tay, khát và đói, khi sao
chổi băng ngang qua.
Ông ấy yêu cầu
Mabus được đánh vần và rồi sửa lỗi phát âm của tôi. Ông ấy đã phát
âm nó là: May-bus
B: Ông ấy nói
rằng cái chết của một nhà lãnh đạo thế giới, có lẽ là một nhà
lãnh đạo tôn giáo, sẽ trùng khớp với sự xuất hiện của một sao chổi
lớn. Tôi nghĩ có lẽ ý ông ấy là sao chổi Halley’s. Ông ấy nói rằng
sao chổi sẽ được nhìn thấy rõ ràng ở đất nước nơi nhà lãnh đạo
thế giới này chết. Đất nước có liên quan nằm ở vùng Trung Đông. Cái
chết của nhà lãnh đạo thế giới ở đất nước Trung Đông này và sự
xuất hiện của sao chổi sẽ kích động một cuộc khởi nghĩa. Một phần
lý do tại sao cuộc khởi nghĩa bị kích động quá dễ dàng đó là cũng
sẽ có những trận mùa màng thất bát xảy ra vào năm đó. Nhiều người
sẽ bị đói kém.
D: Tất cả
những điều này sẽ xảy ra vào năm mà sao chổi sẽ được nhìn thấy sao?
B: Nó sẽ bắt
đầu vào năm mà sao chổi được nhìn thấy, nhưng nó sẽ tiếp tục trong
500 ngày, một trăm bàn tay. Ông ấy đang dùng phép tượng trưng đó để
chỉ ra bao lâu nó sẽ kéo dài, cũng như chỉ ra rằng có một trăm người
sẽ góp phần vào cuộc khởi nghĩa theo cách mà nó sẽ bùng lên và
trở nên mở rộng và lan tỏa đủ để gây được sự chú ý của cả thế
giới.
Một ý tưởng
thú vị rằng một trăm bàn tay có thể có ý nghĩa là 500 ngày. Năm
ngón tay trên một bàn tay nhân cho một trăm. Thậm chí cho đến ngày nay
chúng ta vẫn dùng từ ‘tay’ để nhắc đến một người, như là một “bàn
tay được thuê.” (*ý chỉ người được thuê) Vậy nên, một nghĩa kép. Nó
đang trở nên rõ ràng rằng Nostradamus đã suy nghĩ theo những cách rất
khôn ngoan.
Tôi đã suy xét
rằng bài thơ bốn câu này có thể có khả năng nhắc đến sự sa sút của
Tổng Thống Macos của Philippines bởi vì sự tương đồng trong tên của ông
ta với từ Mabus, và thời gian hẳn sẽ chính xác. Nhưng Marcos đã không
chết, ông ấy đã bị phế truất mọi quyền lực.
Bởi vì Sao
Chổi Halley’s xuất hiện vào năm 1986 và đã không tạo nên thảm cảnh đã
được trù liệu trước, và bởi vì không có điều gì đã xảy ra vào năm
đó mà sẽ phù hợp với với bài thơ này cả, có vẻ như là nó đã
không chính xác. Nhưng Brenda là người đã cho rằng nó là Halley’s. Bài
thơ này có thể đã nhắc tới một sao chổi chưa được khám phá ra. Có
nhiều khả năng ngoài Halley’s.
Cập nhật: Khi
cuộc chiến tranh vùng Vịnh Ba Tư bắt đầu thành hiện thực vào tháng
Tám năm 1990, tôi đã nhận được những bức thư và cuộc điện thoại từ
những người đọc quyển sách này. Họ đã để ý tới việc phép đảo ngữ
Alabus trở thành Sudam khi đọc ngược lại trong hình ảnh từ gương. Điều
này khá xuất sắc và khớp một cách hoàn hảo với suy nghĩ của
Nostradamus. Nếu Sudam Hussein là một nhà lãnh đạo người Trung Đông
được nhắc đến trong bài thơ bốn câu này, vậy thì nó có nghĩa là ông
ấy sẽ chết. Xuyên suốt cuộc chiến tranh, Tổng Thống Bush đã xúi giục
người của chính ông ấy nên nổi dậy và ám sát ông ấy. Điều này đã
không xảy ra, nhưng bài thơ cũng chứa con số 500 ngày. Điều đó có liên
quan như thế nào? Nó cũng được gợi ý rằng sao chổi đi qua có thể đã
có liên quan tới những tên lửa đã được dùng trong cuộc chiến. Chúng chắc
hẳn là giống sao chổi khi chúng bay vút lên bầu trời đêm.
THẾ KỶ 11-65
Trong những
danh sách lờ mờ, trận thiên tai lớn xuyên suốt nước Mỹ và Lombardy.
Lửa trong con
tàu, dịch bệnh và
Sao Thủy ở
vào chòm sao Nhân Mã, sao Thổ cảnh báo.
B: Ông ấy nói
rằng dòng đầu tiên nhắc đến sự thật rằng những người lãnh đạo có
liên quan không có đủ khả năng. Họ được ở đó bởi vì thanh thế của
gia đình họ. Ông ấy nói rằng trong một cuộc liên doanh giữa Mỹ và
Pháp… ông ấy đang gặp khó khăn trong việc miêu tả. Tôi đang nghĩ rằng
ông ấy đang cố để miêu tả một con tàu không gian.
D: Ồ? Hình
ảnh trông như thế nào?
B: Ông ấy đang
không hề mường tượng ra hình ảnh của nó. Ông ấy chỉ đang cố miêu tả
khái niệm về điều mà nó làm. Ông ấy nói rằng nó là một con tàu
nhưng nó không phải là một con tàu thủy. Và tôi đã hỏi ông ấy, “Vậy
thì một chiếc máy bay, một con tàu đi trong không khí?” Ông ấy nói
rằng, không phải trong không khí, ở trên và cao phía trên nó. Ông ấy
nói rằng, vậy nên khí cầu bay phía trên đại dương và những con tàu
bình thường, vậy nên con tàu này bay phía trên những khí cầu nữa. Ông
ấy nói rằng sẽ có một trận thiên tai. Con tàu này sẽ có vài nhà
khoa học ở bên trong, đang thực hiện vài thí nghiệm sinh học để xem
làm cách nào mà những thứ này diễn ra vượt ngoài lực kéo của
trọng lực. Một tai nạn sẽ xảy ra, một sự hư hại mà sẽ khiến con
tàu này đổ nhào trở lại vào bầu khí quyển và vỡ ra khi nó đổ, và
nó sẽ cháy trong bầu khí quyển. Nhưng vài trong số những lọ nhỏ và
hộp chứa đã được sử dụng trong những thí nghiệm sinh học, chứa
những sinh vật sống đủ kiên cường để sống sót qua cú rơi. Bởi vì
những sinh vật này đã được phơi bày ra với vũ trụ, chúng sẽ khác
với bản thân chúng trước đây. Và những sinh vật này tiềm tàng nguy cơ
gây ra những dịch bệnh. Ông ấy nói rằng những ký hiệu chiêm tinh ở
đó, ở phần cuối, giống như một lá số tử vi của ngày đó. Ông ấy
nói rằng sao Thủy ở chòm sao Nhân mã, điều đó đủ dễ dàng để quan
sát được. Chỉ cần nhìn lên bầu trời vào ban đêm với – ông ấy gọi nó
là “một đôi mắt nhìn xa trông rộng” – Tôi nghĩ ý ông ấy là một cái
kính viễn vọng. Và sao Thổ cảnh báo, ông ấy nói rằng cho một người
vẽ biểu đồ tử vi vẽ ra một lá số tử vi khi mà sao Thủy ở vào chòm
sao Nhân Mã và sao Thổ ở vào một nhà (cung) xấu cho cả Mỹ và Pháp
(*một biểu đồ tử vi của chiêm tinh học Tây phương được chia ra làm 12
nhà/cung). Nó sẽ là khi đó. Tôi nghĩ ông ấy đang cố nói rằng sao Thổ
sẽ ở… có liên quan đến sao Thủy, góc hợp sẽ có một ý nghĩa xấu
(*năng lượng từ góc hợp giữa sao Thổ và sao Thủy cho ra một ý nghĩa
xấu.)
D: Nó sẽ là
một cuộc liên doanh giữa Mỹ và Pháp. Người diễn dịch đã nói rằng
bằng cách giải nghĩa những chòm sao chiêm tinh học của ông ấy như một
sự thẳng hàng, rằng (*sự kiện trong) bài thơ này có thể sẽ xảy ra
vào năm 2044. Cô có biết một sự thẳng hàng là gì không?
B: Vâng, ông ấy
nói rằng ông ấy vừa mô tả nó cho bà xong. Và ông ấy nói rằng thảm
họa sẽ khiến cả hai đất nước này này đau buồn và cảm thông cho nhau,
và họ sẽ hợp tác cùng nhau để tìm xem điều gì đã xảy ra.
Đây là dấu
hiệu đầu tiên cho thấy rằng tôi có thể sẽ cần một nhà chiêm tinh học
hay “người vẽ biểu đồ tử vi” để giúp đỡ với những lời giải nghĩa.
Nhưng tôi sẽ có thể tìm được ở đâu một người đủ thuần thục để làm
điều này và cũng có một đầu óc cởi mở và quen thuộc với những
phạm trụ thuộc về siêu hình nữa?
Một lần nữa,
những tình huống lạ lùng bắt đầu có ảnh hưởng. Ngay tuần tiếp theo
đó, một trong những thành viên của chúng tôi mang tới cuộc họp nhóm
nghiên cứu siêu hình của chúng tôi một người thanh niên trẻ, người mà
đã chưa bao giờ từng có mặt trước đây. Thì ra anh ta là một nhà chiêm
tinh học chuyên nghiệp và đã cũng rất quan tâm đến những bài thơ của
Nostradamus. Khi anh ấy nghe được tôi đang làm gì, anh ấy đã rất mong
muốn được làm việc với tôi về điều này. Trùng hợp sao? Sau đó anh
ấy đã nói, “Tôi đã biết có lý do gì đó để tôi đến buổi họp mặt
đó vào đêm đó.” Bởi vì những tình huống khác, anh ấy đã chưa bao
giờ quay lại tham gia những buổi họp mặt. Có vẻ như nó là việc đã
định để anh ấy có mặt ở đó vào tối đó để chúng tôi có thể thiết
lập một mối liên hệ.
Ban đầu, tôi
đã lấy những lời giải nghĩa ra cho anh ấy xem qua. Nhưng sau đó, anh
ấy đã muốn ngồi trong những buổi thôi miên để hỏi Nostradamus những
câu hỏi một cách cá nhân. Vào những lúc đó, tôi đã cố để tập trung
vào duy chỉ những bài thơ bốn câu mà chứa những đề cập thuộc về
chiêm tinh. Điều này đã cho thấy những bài này chỉ là một sự đánh
lạc hướng bởi vì nhiều lần những thứ trông có vẻ như là một bài
thơ thuộc về chiêm tinh học thực tế lại gắn liền với những thứ khác.
John Freeley đã
học tập với nhà chiêm tinh học nổi tiếng Isabelle Hickey, và đã vẽ
biểu đồ từ vi từ năm 1969. Anh ấy là vô giá trong sự am hiểu về
những phạm trù chiêm tinh học này, thứ mà xa lạ với cả tôi lẫn
Brenda. Khi thích hợp, tôi sẽ thêm vào những kết quả tìm được của anh
ấy trong phần giải nghĩa của những bài thơ bốn câu. Anh ấy đã đưa ra
rất nhiều sự hiểu biết sâu sắc trong việc định ngày và những yếu
tố thời gian có liên quan.
THẾ KỶ 11-91
Vào lúc bình
minh một trận cháy lớn sẽ được nhìn thấy,
Tiếng ồn và
ánh sáng kéo dài về phía Bắc. Khắp nơi trên thế giới,
Cái chết và
những tiếng khóc than được nghe thấy,
Cái chết đang
chờ họ qua những vũ khí, trận cháy và nạn đói.
B: Ông ấy nói
rằng bài này có một nghĩa kép, một ngày kép. Một trong số chúng
đã xảy ra và sự kiện kia vẫn chưa xảy ra. Ông ấy nói rằng sự kiện
đầu tiên mà bài này đề cập đến là thảm họa tự nhiên Tunguska ở giai
đoạn đầu thế kỷ của chúng ta.
Tôi đã ngạc
nhiên. Ông ấy đang nhắc tới vụ nổ khủng khiếp không biết nguyên nhân
đã xảy ra ở Syberia vào những năm đầu 1900s. Nó san bằng rừng trong vòng
bán kính 30 dặm, giết hầu hết những động vật hoang dã bởi vì vùng
này đã hầu như rất thưa người ở vào thời gian đó, và làm cho vùng
đất bị nhiễm phóng xạ và vô dụng. Đã có nhiều giả thuyết được đưa
ra để giải thích điều này. Thuyết thường gặp nhất là một thiên
thạch đã va phải trái đất vào lúc đó. Nhưng điều đó có giải thích
được về sự phơi nhiễm phóng xạ không? Những nhà khoa học Nga bây giờ
đã đưa ra khả năng rằng một con tàu không gian có lẽ đã đầm sầm
xuống nơi đó. Nostradamus có thể sẽ chỉ ra được nguyên nhân thật sự
chứ? Sự phát biểu tiếp theo của ông ấy thậm chí còn khiến tôi giật
mình hơn.
B: Ông ấy nói
rằng sự kiện khác mà bài thơ này nhắc đến là một sự kiện tương
đồng. Ông ấy nói rằng bởi vì một nhóm mà ông ấy gọi là “Những
người khác” – và tôi cảm thấy ông ấy đã viết hoa nó – đã cố gắng
liên lạc với chúng ta. Và khi họ đi vào bầu khí quyển của Trái Đất,
họ cố đi theo quỹ đạo được định vị ở vùng cực. Nhưng người Xô Viết
đã tiến hành những nghiên cứu về vũ khí bí mật và họ đã có những
trường năng lượng chắn ở những hành lang tiến gần về phía bắc của họ.
Khi con tàu này thâm nhập vào những hành lang này, nó khiến con tàu
bị hỏng hóc theo một cách mà rất nhiều thủy thủ trên tàu đã bị
thiệt mạng. Và khi họ đâm sầm xuống đó, sẽ có những người lính ở
đó sẵn sàng để bắt hoặc là giết họ và khiến họ phải bỏ mạng.
Nhưng con tàu sẽ nuôi dưỡng vài sinh vật vi mô, thứ mà sẽ phản ứng
theo những cách lạ lùng ở khí hậu trái đất và gây ra những dịch
bệnh không thể nào hiểu được. Những dịch bệnh mà không thể hiểu
được bởi vì những nhà khoa học không thể nhận ra những sinh vật là
nguyên nhân gây bệnh.
Việc đề cập
của ông ấy tới những “Người Khác” thực sự biểu lộ được đúng suy
nghĩ trong tôi. Tôi đã ngạc nhiên khi ông ấy dùng thuật ngữ đó. Tôi đã
được kể cho nghe nhiều lần trong những buổi thôi miên của tôi về những
Người Khác và những Người Quan Sát. Nó thường chỉ những sinh vật từ
ngoài không gian. Tôi ngay tập tức cho rằng Nostradamus cũng đã dùng từ
này theo nghĩa đó.
D: Tôi sẽ nghĩ
rằng họ sẽ không muốn giết những người từ ngoài không gian; rằng họ
sẽ đủ hiểu kỳ để muốn nghiên cứu về những người này.
B: Ông ấy nói
rằng đất nước nơi họ đâm sầm xuống sẽ tham chiến hoặc chuẩn bị tham
chiến. Họ sẽ có đầu óc thiên về chiến tranh, vậy nên bất kỳ thứ gì
từ bên ngoài đều là kẻ thù và sẽ gây ra mối họa tiềm ẩn. Thay vì
hiếu kỳ, họ bị – ông ấy nói bằng từ của chúng ta “chứng nghi ngờ
sợ hãi” hẳn sẽ hợp.
Họ nghi ngờ
về một loại vũ khí mới từ những-kẻ-gọi-là “kẻ thù” của họ, và
vì vậy những sinh vật có liên quan đã bị giết. Có vẻ một người
lính sẽ có một ngón tay ngứa ngáy bóp cò súng và với một loại vũ
khí như vậy - tôi nghĩ ông ấy đang
giải thích rõ về khái niệm của một loại súng máy – sẽ bắt đầu
bắn vào mọi thứ với nó.
D: Tôi sẽ nghĩ
rằng họ muốn thử nghiên cứu về những người này. Tôi nghĩ đất nước
của chúng tôi sẽ, ít nhất thì tôi hy vọng họ sẽ.
B: Ông ấy nói
rằng bà không bao giờ có thể ỷ lại vào bất cứ điều gì bởi vì bà
không bao giờ biết điều gì sẽ xảy ra.
Có vẻ ông ấy
đã ngụ ý mà không trực tiếp nói ra, để cho cả hai vụ việc (Tunguska
và vụ này) có liên quan đến việc rơi vỡ của tàu không gian.
Một thứ khiến
tôi băn khoăn đó là sự đề cập của ông ấy về hai bài thơ bốn câu riêng
biệt về vi khuẩn và vi trùng gây bệnh. Tôi đã biết rằng vào thời
đại của Nostradamus những bác sĩ đã không biết về sự tồn tại của vi
khuẩn và vi trùng gây bệnh. Họ đã không biết gì về đề tài này và
thực sự không biết về nguyên nhân của những căn bệnh mà đã lan tràn
trong suốt thời đó. Niềm tin phổ biến là tất cả những thể sống bậc
thấp được tạo ra bởi sự phát sinh tự động, và những bác sĩ đã vô
cùng nỗ lực để chứng minh điều đó. Đây là một niềm tin lạ lùng,
rằng tất cả những thể sống bậc thấp, từ chuột nhắt và chuột cống
xuống đến ếch và cóc đến sâu và bọ, đều không có cha mẹ. Chúng
được tự động tạo nên bởi ánh sáng mặt trời từ bùn, chất lỏng sệt,
nước ứ đọng hay những vật chất đang phân hủy mà chúng có vẻ như từ
đó nổi lên. Vậy nên tôi đã tự hỏi làm cách nào mà Nostradamus dường
như đã biết về những thứ như vậy mà ông ấy rất có khả năng đã chưa
từng nhìn thấy bao giờ. Tôi đã hỏi liệu ông ấy đã dùng những thuật
ngữ “vi khuẩn và vi trùng gây bệnh” hay liệu đó là sự diễn giải của
Brenda về những gì cô ấy đã được cho xem.
B: Ông ấy nói
rằng nó nhìn chung đã được chấp nhận vào thời của ông ấy rằng
những thứ như vậy không tồn tại. Nhưng ông ấy nói rằng ông ấy ban đầu
đã nhận được một lời gợi ý mơ hồ rằng chúng có thể tồn tại từ
việc đọc vài bài viết của một số nhà triết học Hy Lạp. Họ đã đặt
giả thiết rằng những thứ như vậy có thể tồn tại. Điều đó, cho dù
như các thể sống, có thể lớn hơn và lớn hơn nữa: con người, động
vật, thực vật, hành tinh… trong không gian, thinh không và đại loại.
Rằng tại sao nó không thể đi theo hướng ngược lại và những thứ đó
sẽ trở nên nhỏ lại và nhỏ lại. Vậy nên ông ấy nói rằng người Hy
Lạp đã tin rằng có những hạt rất nhỏ gọi là “nguyên tử”. Và tại
sao những động vật nhỏ này và những thứ gọi là “nguyên tử” đã hoạt
động theo cách mà một vài thực vật hoạt động? Vài thực vật hoạt
động như là độc dược. À, ông ấy đặt giả thiết, tại sao vài động
vật không thể cũng hoạt động theo cách này? Và với sự đặt giả
thiết về điều này của ông ấy, nó đã giúp ông ấy hiểu được những
gì ông ấy đang nhìn thấybất cứ khi nào ông ấy nhìn thấy những thứ
này từ tương lai. Ông ấy đã nhận ra rằng tôi đã hiểu những phạm trù
này và rằng có những định danh cho những phạm trù này trong ngôn ngữ
của tôi. Và vì vậy ông ấy bảo tôi cứ tiếp tục và định danh chúng
là vi khuẩn và vi trùng gây bệnh. Trong sự hiểu biết của riêng ông
ấy, ông ấy có những từ ngữ khác. Thỉnh thoảng ông ấy gọi chúng là
“nguyên tử” như cách mà người Hy Lạp đã gọi. Và thỉnh thoảng ông ấy
gọi chúng là “những thứ nhỏ xíu” và “những động vật nhỏ xíu” mà
làm điều này. Ông ấy nói rằng ông ấy thực sự không có một từ ngữ
nhất định nào cho những thứ này bởi vì ông ấy nào giờ chưa bao giờ
nhìn thấy chúng. Ông ấy thực sự không biết chúng là gì. Vậy nên khi
ông ấy không đang định tĩnh (thiền), nó chỉ là một bài tập lý
thuyết hay thuộc về trí óc, một sự giải trí tinh thần khi nghĩ về
những thứ như vậy. Và vì vậy bất cứ khi nào ông ấy nhìn thấy trong
những thế hệ tương lai rằng những thứ như vậy được công nhận là có
tồn tại, ông ấy có cảm giác như là bà có khi bà đã giải thành công
một câu đố vậy.
D: Tôi vô cùng
ngạc nhiên rằng người Hy Lạp đã biết đến những thứ này. Tôi không
nghĩ chúng ta ý thức được trong thời đại của mình rằng họ đã hiểu
biết sâu rộng như vậy.
B: Ông ấy nói
rằng vài người ở thời của bà ý thức được rằng họ đã biết về
những thứ như vậy. Nhìn chung nó không được công nhận rằng người Hy
Lạp đã biết rất nhiều thứ mà họ biết bởi vì có nhiều trường phái
tư duy vào thời Hy Lạp cổ. Và vài trong số chúng đã không được nổi
tiếng. Những trường phái nổi tiếng, cụ thể là với người La Mã, là
những trường phái mà được truyền thụ lại qua nhiều thế kỷ và những
trường phái này thường không bao gồm khái niệm của nguyên tử và
những thứ như vậy, mặc dù đã có những bằng chứng bằng chữ viết về
những trường phái tư duy như vậy.
D: Nó được tin
tưởng một cách rộng rãi rằng bởi vì họ không thể nhìn thấy những
thứ này, nên họ không thể biết về chúng được.
B: Ông ấy đang
cười một cách khinh miệt. Ông ấy nói rằng những nhà khoa học vào
thời đại của bà đầu óc vô cùng khép kín và ngu ngốc khi nghĩ như
thế. Ông ấy nói rằng người Hy Lạp, hơn bất kỳ ai, là những nhà tư
tưởng. Họ luôn luôn suy nghĩ về nhiều thứ và tìm ra nhiều thứ. Họ
đã không cần phải nhìn thấy thứ gì để có thể kết luận một cách
lô-gic rằng thứ đó có tồn tại.
Một thứ khác
mà tôi đã tò mò về nó là khi ông ấy đề cập đến những Người Khác.
Tôi đã bảo ông ấy rằng tôi đã quen thuộc với thuật ngữ này nhưng tôi
đã muốn biết ông ấy đã biết gì về họ.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy không biết nhiều về họ. Chỉ là những gì ông ấy nào giờ
đã nhìn thấy trong những linh ảnh của ông ấy và những gì ông ấy đã
có khả năng phỏng đoán một cách có lô-gic. Ông ấy nói rằng họ giữ
những niềm tin dị giáo. Rằng nếu ông ấy phát biểu về phân nửa trong
số chúng, ông ấy sẽ bị thiêu trên giàn hỏa. Ông ấy khá phấn khích
vào lúc này. Ông ấy nói, có một điều, trái đất không phẳng; nó
hình tròn.
D: Và ông ấy
đúng đấy.
B: À, ông ấy
thà nói ra một cách đầy kiêu hãnh, “Tôi biết thế!” (Cười) Và còn
một điều nữa, ông ấy nói rằng bất cứ ai với bất kỳ kiến thức nào,
bất kỳ người nào có mắt để nhìn đều có thể nói rằng trái đất
không nằm ở trung tâm của vũ trụ. Và ông ấy rất nghi ngờ việc mặt
trời cũng nằm ở trung tâm của vũ trụ. Mặt trời chỉ là một cách
ngẫu nhiên, nằm ở trung tâm của một phần này của vũ trụ. Ông ấy nói
rằng với Chúa là một vị Chúa toàn năng, và có quyền năng vô hạn, ai
dám nói rằng chúng ta là những tạo tác duy nhất của Chúa ở đây
chứ. Dường như đối với ông ấy, với việc Chúa là một vị Chúa toàn
năng thì hẳn phải có vô hạn những tạo tác của Chúa. Ông ấy đã nhìn
thấy trong những linh ảnh của mình mà cách duy nhất ông ấy có thể
giải thích được chúng là bằng cách nói rằng có nhiều những tạo
tác của Chúa hơn nữa: những người, động vật và sinh vật khác từ
những phần khác của vũ trụ. Ông ấy nói rằng những vị giám mục sẽ
coi những thứ này là dị giáo, nhưng riêng ông ấy lại xem những vị
giám mục là dị giáo bởi vì họ đang cố để giới hạn Chúa lại. Và
Kinh Thánh nói một cách rất giản dị rằng không có giới hạn nào đối
với Chúa cả.
D: À, nói với
ông ấy rằng tôi đồng ý với ông ấy. Và ông ấy đang hỏi cùng một câu
hỏi mà chúng ta vẫn đang hỏi cho tới ngày nay, chỉ là bây giờ chúng
ta cởi mở tâm trí hơn một chút để tìm câu trả lời.
B: Ông ấy đã
nói ông ấy cho rằng sẽ có một vài người không cởi mở như vậy. Luôn
có một phân khúc xã hội có thói quen giữ tâm trí hẹp hòi nhất mà
họ có thể.
Khi tỉnh dậy,
tôi đã hỏi Brenda liệu cô ấy có biết thuật ngữ, “Những Người Khác.”
Cô ấy đã nói
nó có thể có nhiều nghĩa, nhưng cô ấy đã không liên kết nó một cách
cụ thể với bất kỳ thứ gì nổi bật trong tâm trí của cô ấy. Khi tôi
nói với cô ấy nó có ý nghĩa gì đối với tôi, cô ấy đã nói rằng cô
ấy lẽ ra sẽ không nghĩ tới nó trong ngữ cảnh đó.
B: Người đàn
ông có một khiếu hài hước tốt khi ông ấy không gay gắt. – Uh-ồ! Ông
ấy đã mới vừa la mắng tôi vì đã lạc đề đây này.
D: (Cười) À,
không có gì sai khi có một khiếu hài hước tốt cả. Nó giải phóng
căng thẳng.
B: Ồ, đó đã
không phải là thứ mà ông ấy đã đang than phiền đâu. Ông ấy đã gọi tôi
là lạc đề bởi vì những gì mà tôi đã nói về ông ấy, khi ông ấy đang
bận rộn với việc gay gắt.
Ông ấy nói
rằng sẽ có những buổi thôi miên trong tương lai. Ông ấy đã nhìn thấy
điều này. Ông ấy nói rằng mọi thứ sẽ được ổn định vào nề nếp của
nó. Và chúng ta sẽ tiếp tục những nề nếp này trong một khoảng thời
gian với những thay đổi nhỏ đến rồi đi. Nhưng dần định hình cuộc
sống của chúng ta theo nhiều chiều hướng khác nhau mà cuộc đời của
chúng ta dẫn dắt.
D: Những gì
mà tôi đang nghĩ sẽ làm là cuối cùng cũng cố gắng để giải nghĩa
hết tất cả những bài thơ bốn câu.
B: Ông ấy nói
rằng nếu những con đường của chúng ta đi theo hướng đó, điều đó sẽ
khá tốt bởi vì ông ấy muốn làm thế. Ông ấy nói rằng ông ấy biết
chắc rằng chúng ta sẽ có những bài quan trọng được giải nghĩa dù
sao đi nữa. Ông ấy nói rằng hãy chắc chắn là tập trung vào những
bài thơ và thông tin mà chúng chứa đựng, và không phải về những thông
tin vụn vặt xoay quanh. Ông ấy nhận ra rằng cái cách mà sự giao tiếp
được thiết lập có thế trông có vẻ đáng kinh ngạc đối với bà, nhưng
về phía ông ấy suy xét, thì nó không quan trọng. Điều quan trọng là
đem được thông tin trong những bài thơ này sẵn sàng đến cho người
khác.
Ông ấy vô cùng
kiên quyết trong công việc và mục đích. Ông ấy chỉ tập trung vào việc
viết xuống như vậy đến nỗi ông ấy quên rằng bà cảm thấy bất an về
nó. Ông ấy giống như một họa sĩ đang vẽ dở một bức tranh vậy. Ông
ấy tập trung vào kết quả cuối cùng của một sự nỗ lực, cho đến
toàn bộ sự nỗ lực và mang theo sự nỗ lực ấy xuyên suốt đến hồi kết
thúc. Và ông ấy không màng đến những thứ mà ông ấy cho là vụn vặt
dọc theo trên đường. Ông ấy đang tập
trung vào một mục tiêu mà thôi.
Michel de
Notredame nhận ra rằng thỉnh thoảng khá là bực bội cho bà bởi vì
những chướng ngại ở trên đường. Nhưng suy nghĩ trong đầu ông ấy khi ông
ấy sắp rời khỏi đó là nếu bà càng phải vật lộn để hoàn thành
vài thứ, thì thành quả sẽ càng tồn tại lâu bền hơn.
Hãy tưởng
tượng một trò ghép hình có vài trăm mảnh ghép. Đây là cái thế khó
mà tôi đã gặp phải khi tôi nỗ lực sắp xếp những bài thơ bốn câu theo
một thứ tự có lô-gic nào đó. Nó là có khả năng nhưng lại khó khăn.
Đặc biệt là khi có một mảnh ghép thỉnh thoảng lại từ chối khớp
vào bất kỳ đâu. Tôi đã quyết định sẽ dựa vào bất kỳ ngày tháng
nào được đưa cho, và nội dung chủ đề. Sau nhiều sự xáo trộn và sắp
xếp lại, tôi đã chọn thứ tự sau đây. Nó thật đáng kinh ngạc và gần
như không thể tin nổi rằng khi những chương được kết hợp lại với nhau,
chúng có nghĩa và tạo nên một câu chuyện liên tục. Có vẻ như không
hề có những mâu thuẫn nào, như thể là Nostradamus xếp đặt chúng vào
một loại thứ tự nào đó trước khi ông ấy xào xáo chúng lên và trộn
lẫn chúng với nhau mãi mãi. Khi chúng tôi nhớ ra rằng chúng đã được
giải nghĩa theo một kiểu tán loạn như vậy, xác suất mà sự liên tục
này hiện ra phải là vô cùng thấp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.