CHƯƠNG 8
Người đàn ông bí ẩn
Tôi đã chưa
nghe gì từ Elena kể từ chuyến đi của cô ấy. Sau bước ngoặc vĩ đại
này, tôi đã viết thư cho cô ấy để kể với cô về những bước phát
triển không tưởng. Tôi cũng muốn cho cô ấy biết rằng cô ấy bây giờ đã
“không mắc míu vào rắc rối” gì nữa. Cô ấy đã không phải cảm thấy
bất kỳ trách nhiệm gì nữa trong dự án này. Tôi đã đi đến kết luận
rằng phần của cô ấy trong tất cả điều này nào giờ là để đóng vai
trò như một cầu nối, một chất xúc tác để khiến toàn bộ mọi thứ
bắt đầu.
Thư hồi âm của
cô ấy chứa đựng những tiết lộ sau đây, “Tôi đã biết trong vòng một
vài tuần sau khi rời khỏi bà rằng tôi đã kết thúc với phần đó của
nó rồi. Nhưng tôi đã có một sự nhận biết nội tại rằng mọi thứ sẽ
được tiếp tục mặc dù mặt trí tuệ của tôi đã không thể nào hiểu
được. Tôi biết tôi phải vẽ bức chân dung, tôi đã vẫn luôn nhìn thấy
gương mặt ông ấy ngày càng nhiều hơn trong tuệ nhãn của mình (*con
mắt của tâm thức).”
Bức tranh đến
nơi một vài tuần sau đó. Vì một vài lý do nào đó, cô ấy nhìn thấy
ông ấy đội một cái mũ len trùm đầu được kéo xuống phủ lấy đôi tai.
Cô ấy nói rằng nó là một bức chân dung khá khó vẽ và cô ấy đã
không hoàn toàn hài lòng với nó. Nỗi thất vọng chủ yếu đó là cô
ấy cảm thấy mình đã không khắc họa được sự nồng nhiệt trong đôi mắt
của ông ấy. Khi Brenda nhìn thấy nó, cô ấy đã nói nó đã khá giống
với cách mà cô ấy đã phác họa ông ấy trong tâm trí mình. Cho dù nó
có chính xác hay không, nó vẫn là một thành tựu xuất sắc khi mà
Elena đã có thể vẽ lại chân dung của một người đã ông đã chết được
400 năm rồi.
Đúng hơn là
tôi nên nói “thứ-gọi-là” chết bởi vì khi tôi bắt đầu trò chuyện với
ông ấy một cách thường xuyên, từ “chết” sẽ không bao giờ miêu tả được
ông ấy. Đối với tôi, ông ấy đã trở nên vô cùng đang còn sống và trưng
ra mọi những cảm xúc trộn lẫn khác nhau, thứ mà nhào nặn chúng ta
thành những cá thể con người. Vào những lúc khác nhau ông ấy sẽ cáu
bẳn, thiếu kiên nhẫn, lo lắng hay nồng nhiệt. Ông ấy sẽ thường trở
nên nóng giận với việc những người dịch nghĩa đã giải nghĩa những
bài thơ bốn câu của ông ấy như thế nào. Vào những lúc khác, ông ấy
sẽ truyền đạt lại một khiếu hài hước chân thật. Vào những lúc này
ông ấy sẽ đùa cợt với chúng tôi và thậm chí là trở nên khá hăng
say. Ông ấy là một người khá là có cá tính.
Ông ấy cũng
rất con người. Tôi đã biết rằng mọi lúc tôi đều đang giao tiếp với
một con người lý tính, đang sống và không phải một linh hồn. Ông ấy
cũng đã rất dứt khoát nhấn mạnh rằng ông ấy vẫn đang còn sống,
rằng tôi đã không hề đang nói chuyện cùng người chết. Điểm này vô
cùng quan trọng với ông ấy. Ông ấy mong muốn một cách sâu sắc rằng
tôi hiểu được điều này. Rằng ông ấy đã có tài năng hiếm có này,
thứ mà cho phép ông ấy nhìn vào tương lai và vì vậy, giao tiếp được
với tôi. Điều này có nghĩa rằng thuyết thời gian đồng thời hay song
song là sự thật? Tôi sẽ để nó lại cho những người khác cố gắng
giải thích về “như thế nào” và “tại sao” và lý lẽ của nó. Tôi sẽ
chỉ cố gắng tiến hành dự án mà ông ấy đã ấn định cho tôi mà thôi.
Đã muốn biết
nhiều hơn về Nostradamus, vậy nên tôi thường hỏi những câu hỏi về cuọc
đời của ông ấy. Tôi sẽ đặt tất cả những câu này chung với nhau ở đây
trong phạm vi vấn đề.
D: Ông ấy có
phiền không nếu tôi hỏi ông một số câu hỏi về cuộc đời của ông ấy?
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy sẽ trả lời những câu hỏi nào mà ông ấy có thể. Bởi vì
ông ấy vẫn chưa đi tới giai đoạn cuối của đời mình, nên ông ấy không
biết toàn bộ câu chuyện đâu.
D: (Cười) Nhưng
tôi có hứng thú với phần thời trước. Ông ấy hẳn là biết về phần
đó chứ. – Một trong những điều người ta đã luôn tự hỏi là làm cách
nào ông có thể thực hiện được những sự chữa trị y học của mình.
Làm cách nào ông đã có thể kiểm soát được cơn đau và sự chảy máu
và những thứ như thế. Ông có thể chia sẻ điều đó với tôi được không?
B: Nó còn tùy
thuộc vào cách nào mà tôi dùng. Thỉnh thoảng tôi dùng những cách
thuộc về vật lý và thỉnh thoảng là những cách thuộc về tinh thần.
Tôi dường như nghĩ rằng điều này… bất kể bà muốn gọi nó là gì,
tới mức mà tôi có thể thấy được những thứ sẽ xảy ra. Thỉnh thoảng
điều đó có tác dụng phụ, những nguồn năng lượng vô hình mà có thể
làm những thứ khác như dập tắt cơn đau hay ngăn chặn máu chảy. Suy
xét trong vòng những những biện pháp vật lý, rất nhiều lần tôi cũng
dùng tài năng này cho điều đó. Nếu tôi đặt trí óc mình vào một tâm
trạng nhất định, tôi có thể nhìn thấy những nguồn năng lượng cuộc
sống chảy trôi xuyên qua một cơ thể. Nếu có một điểm nơi chúng không
chảy được theo như cái cách mà lẽ ra chúng nên chảy, nếu bà nhấn
vào nơi đó hay xoa nó hay dùng những hình thức thao tác bằng tay
khác, cho đến khi nó trôi chảy thông suốt trở lại, nhiều lần điều đó
giúp loại trừ cơn đau. Tôi thường dùng một sự kết hợp giữa những
cách thuộc về vật lý và tinh thần để kiểm soát cơn đau trong phẫu
thuật. Một thứ mà tôi làm rất hiệu quả. Tôi để bệnh nhân giúp tôi
nữa. Tôi cũng để họ vào một tâm trạng phù hợp, tới khi họ không cảm
thấy đau đớn nữa. Với họ không hề cảm thấy đau đớn từ phía họ, và
tôi giúp họ với tâm trí của tôi và ấn vào những nơi mà tôi có thể
thấy rằng sẽ giúp kiểm soát được cơn đau, điều đó giữ cho cơn đau
giảm tối thiểu tới mức mà tôi có thể mổ mà thần kinh của cơ thể
không phải trải qua cảm giác sốc.
D: Đây là
những điều mà những vị bác sĩ khác không biết, phải vậy không?
B: Không, họ
không có được tài năng mà tôi có. Và bên cạnh đó, mọi người vô cùng
bưng bít về những gì mà tâm trí có khả năng làm được. Tôi đã vẫn
luôn tiến hành những thí nghiệm để tìm xem tâm trí có thể làm gì.
Đó là một trong những thứ mà tôi nào giờ đã vẫn đang làm với những
người học trò của mình. Những nghiên cứu mà chúng tôi thực hiện với
tâm trí là cùng thuộc về cả y học lẫn siêu hình. Những nghiên cứu
này rất nổi tiếng với học trò của tôi.
D: Tôi có thể
hiểu được tại sao họ sẽ như thế. Nhưng những người bác sĩ khác không
tự hỏi làm cách nào mà ông có thể làm được những điều này sao?
B: Họ tự hỏi,
nhưng bất cứ khi nào tôi cố giải thích cho họ, sự mù quáng của họ
lại chen vào và họ ngay lập tức bắt đầu khóc lóc về “ma thuật phù
thủy.” Vậy nên tôi không màng tới. Tôi chỉ cười và nhún vai và nhướng
một bên chân mày và để họ tiếp tục tự hỏi. Và danh tiếng của tôi
dần lớn lên.
D: Tôi đã nghĩ
rằng họ sẽ cố bắt chước ông, để sao chép ông theo cách nào đó nếu
họ biết được.
B: Họ không
biết phải làm gì để sao chép được tôi.
D: Họ không
thể chọc lọc ra được nó bằng cách quan sát ông sao?
B: Không.
Thường vào thời điểm bắt đầu một ca mổ, tôi sẽ nhìn chăm chú vào
mắt của bệnh nhân để đặt họ vào một tâm trạng phù hợp. Tôi không
thực sự biết tại sao tôi có khả năng làm được điều này, nhưng tôi
làm được. Và họ (những người bác sĩ) rõ ràng không thể tập trung
bằng mắt đủ tốt như vậy để làm điều này.
D: Tôi đã nghĩ
nếu họ nghe thấy ông nói chuyện với bệnh nhân, họ sẽ biết ông đang
làm gì đó.
B: Tôi nói rì
rầm với bệnh nhân nhưng họ, những người bác sĩ, thường không ở gần
đủ để nghe thấy tôi đang nói gì.
D: Ông nói gì
với bệnh nhân vậy?
B: Ồ, nó tùy
thuộc vào tình huống là gì. Tựu trung, tôi kể với họ những điều
tốt đẹp, Giống như, họ đang cảm thấy rất tốt, rằng nó thật dễ
chịu, rằng họ không có lý do gì để sợ hãi cả, và rằng mọi thứ sẽ
ổn thôi và họ sẽ khỏe lại sau tất cả, và những thứ như vậy.
Tôi đã nhớ
rằng Dyonisus từng nói lúc này là những lúc nguy hiểm và họ đã
phải vô cùng dè chừng vì Tòa Án Công giáo.
D: Tôi đã luôn
nghĩ rằng một người đàn ông đầy quyền lực như ông sẽ không gặp nguy
hiểm. Tôi luôn cho rằng ông đầy quyền lực dù sao đi nữa, với tất cả
tri thức của ông.
B: Tôi được tôn
trọng bởi vì tôi có giáo dục và bởi vì thuốc của tôi, công việc
chữa bệnh của tôi. Tôi được tôn trọng bởi vì tôi được xem là có hiểu
biết rộng. Tôi là một người giỏi toàn diện và học cao. Nhưng điều đó không trao cho tôi thẩm
quyền chính trị mà tôi cần để đảm bảo rằng tôi sẽ không rơi vào nguy
hiểm gì cả. Tôi được sinh ra bởi hai song thân giản dị và đơn sơ. Tôi
không có tước vị gì cả. Tại thời điểm của tôi, những người thuộc
giới quý tộc mang một quyền lực thực sự và người ta thực lòng tin
rằng nhà Vua là Chúa trời, hoặc gần như Chúa trời, bởi nhà Vua có
quyền lực tuyệt đối. Và nó vận hành như thế. Cũng như vậy, vào
thời của tôi, nhà thờ là vô cùng quyền lực. Và tôi cũng phải cẩn
trọng vì điều đó nữa. Bởi vì nhà thờ có thể vận dụng đủ quyền lực
chính trị để bắt nhà vua và giới quý tộc làm bất cứ điều gì mà
họ muốn trong những tình huống nhất định. Vậy nên nhiệm vụ của tôi
là rất quan trọng. Tôi không hề tự phô trương chút nào khi nói điều
này. Nó hẳn là rõ ràng với bất kỳ ai rằng nhiệm vụ của tôi mang
tính chất sống còn. Nếu không thì tại sao tôi lại có khả năng này
mà tôi đang có chứ? Nào giờ tôi đã có nó toàn bộ cuộc đời tôi. Tôi
đã không hề hỏi xin nó. Nó đã ở đó và vì vậy nó phải ở đó vì
một mục đích. Chúa phù hộ theo những cách bí ẩn, và đây là một
trong những cách bí ẩn của ông ấy, tôi cho là thế. Và vì vậy, tôi
sẽ làm nhiều nhất mà tôi có thể, tốt nhất mà tôi có thể, để giúp
đỡ loài người nói chung.
Nostradamus
hiếm khi nói trực tiếp ở ngôi thứ nhất sau lần này. Thông tin được
tiếp nhận thông qua Brenda là người thứ ba.
D: Nostradamus
có thể đưa cho chúng ta những thông tin về chữa lành mà có thể được
vận dụng vào thời đại hiện tại của chúng ta không?
B: Vâng, ông ấy
có thể. Đó là, ông ấy có thể cố để giải thích vài thứ mà ông ấy
sẽ làm. Nếu bà cảm thấy chúng có thể áp dụng được, bà cứ tự nhiên
mà áp dụng chúng. Ông ấy nói rằng ông ấy có nhiều kỹ thuật vật lý
mà ông ấy dùng từ những thứ mà ông ấy đã nhìn thấy từ thời gian ở
tương lai. Và ông ấy sẽ nói, “À! Tôi có thể tự làm điều đó bây giờ.
Nó có thể không được chấp nhận bởi những người đồng nghiệp của tôi
nhưng tôi có thể tiếp tục và làm nó, và nó sẽ giúp được người ta.
Và tôi sẽ giúp người ta nhiều nhất có thể.” Hầu hết những điều này
không nhất thiết là những tiến trình phức tạp, mà chỉ là những thứ
để tăng cơ hội của ông ấy để cứu vài trong số những bệnh nhân của
ông ấy mà thôi. Tuy nhiên, là người rất mạnh về mặt tâm linh, ông ấy
nói rằng ông ấy có khả năng nhìn thấy được trong tâm trí điều gì
không đúng, để ông ấy có thể biết được phải chữa điều gì. Ông ấy
sẽ dùng rất nhiều năng lượng tích cực với người bệnh, và để người
bệnh giúp ông ấy bằng cách mường tượng chính họ với căn bệnh không
còn ở đó nữa. Ông ấy sẽ giúp họ khỏe lên và giúp họ trở nên tự
tin vào chính mình hơn cũng như là tin tưởng vào những gì ông ấy đang
làm. Để giúp mảng tâm linh trở nên có ích hơn đối với những khía
cạnh vật lý, tinh thần và cảm xúc của việc chữa lành.
Thậm chí nếu
Nostradamus đã không gọi nó là như vậy, ông ấy rõ ràng đã đang thực
hành một hình thức thôi miên tiên tiến, kết hợp với bấm huyệt và
khả năng nhìn thấy những điểm yếu trong vùng quang tử (của một
người). Có vẻ như ông ấy vốn là một người thầy thuốc siêu nhiên tiên
tiến như vậy, đến nỗi mà ông ấy có những tài năng khác ông ấy đã
dùng mà còn không nhận ra chính xác tại sao ông ấy đang làm nó hay
bằng cách nào.
D: Ông ấy có
bao giờ dùng màu sắc như một yếu tố trong việc chữa lành không?
B: Có, rất
nhiều. Ông ấy nói rằng một trong những thứ ông ấy sẽ làm để giúp
tạo nên bầu không khí phù hợp đó là bằng cách dùng một lăng kính,
ông ấy sẽ mô phỏng màu sắc của ánh sáng cho một bệnh nhân. Ông ấy
sẽ mô phỏng làm thế nào mà những gì trông có vẻ như là ánh sáng
màu trắng cũng có những màu sắc khác trong nó. Ông ấy sẽ chỉ ra cho
họ một trong những màu sắc và yêu cầu họ tưởng tượng rằng họ đang
đứng trong một nguồn sáng của màu sắc này chiếu rọi lên người họ.
Bất cứ màu sắc nào là cần thiết cho một kết quả mong muốn để giúp
đưa những trường tâm linh của họ về trạng thái cân bằng.
D: Ông ấy có
ý thức được phương pháp mà tôi đang dùng để liên lạc với ông ấy
không?
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy không biết một cách cụ thể, nhưng ông ấy có một cảm
giác mạnh mẽ rằng nó tương tự như vài trong số những phương pháp mà
ông ấy dùng để chữa trị.
D: Vâng, phương
pháp được gọi là “thôi miên” ở thời đại của tôi.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy đã dùng phương pháp đó để giúp giảm đau ở người ta.
D: Nó cũng
được dùng cho mục đích đó ở thời của chúng tôi nữa. Nhưng nó cũng
có những mục đích sử dụng khác.
B: Ông ấy nói
rằng nó là điều phi thường nhất. Nó là một công cụ thuận tiện và
ông ấy mừng là nó đã không bị mất đi qua thời gian.
D: Ông ấy có
lẽ biết cách sử dụng nó giỏi hơn là chúng tôi và ông ấy có lẽ có
những ứng dụng cho nó mà tôi không biết. Nhưng tôi đã khám phá ra
phương pháp sử dụng nó để liên lạc với người ta xuyên qua thời gian.
Nó làm việc với tâm trí và tâm trí là một tạo tác phi thường.
B: Ông ấy nói
rằng thực sự không có giới hạn nào về những gì có thể được thực
hiện với tâm trí.
D: Thật đáng
buồn là những người khác ở thời đại của ông ấy không thể nhận ra
được những điều này. Điều đó lẽ ra đã khiến nó tốt hơn rất nhiều
(*nếu họ nhận ra).
B: Họ đã có
thể nhận ra, họ chỉ là sẽ không. – Vào thời điểm này, tôi cảm thấy
một xúc cảm của một sự đau buồn sâu sắc từ Michel de Notredame. Ông
ấy biết rằng có rất nhiều thứ người của ông ấy có thể làm được
mà sẽ giúp ích được cho họ rất nhiều. Nhưng họ không, hay không thể
bởi vì họ không biết về nó, hoặc không thể quản trị được tri thức,
hoặc họ chỉ là cứ mãi ngu dốt mà thôi. Điều này làm ông ấy buồn
lòng rất nhiều.
D: Vâng, đó là
thời đại mà ông ấy đang sống và chúng ta không thể điều khiển được
nó. – Tôi đang tự hỏi ông ấy đã học làm những điều này từ đâu. Ông
ấy đã nhận được sự dạy dỗ từ ai đó chứ?
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy nào giờ đã luôn hơi khác lạ một chút và rằng những linh
ảnh (*khải tượng) của tương lai đã luôn ở đó với ông ấy. Ông ấy sẽ
nhìn vào người ta và thấy chồng lên họ là những linh ảnh của việc
mọi thứ sẽ xảy ra như thế nào cho họ. Và ông ấy nhận ra rằng ông ấy
có thể dùng tài năng này để giúp đỡ người khác. Vậy nên ông ấy đã
bắt đầu tìm kiếm tri thức và sự rèn luyện. Ông ấy nói rằng không
có nhiều thứ như vậy để tìm. Hầu hết những thứ mà ông ấy làm, ông
ấy đã tự mình khám phá ra. Ông ấy đã khám phá ra rằng ông ấy có
khả năng tập trung tốt nếu ông ấy nhìn chăm chú vào một ngọn lửa từ
nến.
Và vì vậy ông
ấy lý luận rằng nó thậm chí sẽ còn tốt hơn nếu ông ấy dùng một
đèn cồn để đốt chất cồn hay thứ gì đó tương tự, để tạo ra một
ngọn lửa tinh khiết hơn.
D: Người ta đã
nghĩ rằng có lẽ ông ấy đã đi du lịch và học hỏi được những điều
này từ những người thầy vĩ đại ở những nước khác.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy đã học với một vài người thầy nhưng không nhiều như
những gì người ta nghĩ. Hầu hết những sự dạy dỗ mà ông ấy đã có,
là từ những người thầy vĩ đại từ những cảnh giới khác. Ông ấy nói
rằng thỉnh thoảng khi ông ấy thiền định, ông ấy sẽ nhận được tri
thức. – Nhưng ông ấy có vẻ như khá là bối rối về việc ông ấy đã
lấy được chiếc gương ở đâu. Ông ấy nói rằng ông ấy thực sự không
chắc làm thế nào mà điều đó đã xảy ra. Ông ấy có vẻ như nghĩ rằng
một sinh vật nào đó từ một cảnh giới khác hay một thời không khác
đã ban nó cho ông ấy, để có thể liên lạc giữa nhiều cảnh giới khác
nhau.
D: Tôi tự hỏi
ông ấy đã tìm ra nó bằng cách nào.
B: Ông ấy nói
ông ấy đã không tìm thấy nó. Ông ấy đã đang thiền định một ngày nào
đó và ông ấy thấy sinh vật này đứng trước mặt ông ấy, nói chuyện
với ông ấy và dạy ông ấy. Sinh vật này đã nói với ông ấy rằng ông
ấy sẽ có thể liên lạc lại với sinh vật đó và với những cảnh giới
khác, bất cứ khi nào ông ấy muốn. Và Nostradamus đã hỏi, “Bằng cách
nafo? Tôi vẫn chưa được rèn luyện tới mức đó.” Và sinh vật đó đã
nói, “Ông sẽ biết khi ông quay trở lại với ý thức bình thường.” Khi
ông ấy quay lại với ý thức bình thường, chiếc gương đã đang nằm đó,
trước mặt ông ấy.
D: Vậy nên ông
ấy đã không thực sự biết nó đến từ nơi nào.
Vào giai đoạn
đầu của một buổi thôi miên, cô ấy đã thông báo:
B: Ông ấy đã
gặp một chút rắc rối khi đi xuyên qua, để đến nơi gặp gỡ lần này,
nhưng ông ấy cảm thấy vấn đề của ông ấy hẳn sẽ không gây trở ngại
tới những gì mà ông ấy muốn làm với bà.
D: Sao ông ấy
lại gặp rắc rối?
B: Tôi không
chắc là ông ấy biết tại sao. Ông ấy nghi ngờ rằng nó có lẽ có liên
quan tới sự thật rằng vài kẻ nghi ngờ đã vẫn luôn chất vấn ông ấy.
Họ đã phóng chiếu ra những năng lượng và ảnh hưởng tiêu cực, thứ mà
sẽ gây trở ngại với những gì mà ông ấy cố gắng làm. Ông ấy nói
rằng những kẻ nghi ngờ thì tồn tại đời đời như là cỏ dại vậy, và
cũng sống dai hệt như vậy. Ông ấy dường như đã khịt mũi vào lúc này
và lắc đầu.
D: Họ chất
vấn ông ấy về công việc ngành y hay là công việc của ông ấy với
những lời tiên tri?
B: Cả hai.
D: Tôi có thể
hiểu bởi vì thỉnh thoảng tôi cũng nhận vài lời nhận xét tiêu cực.
Tôi chắc hẳn là không thể đánh giá đúng vị trí của ông ấy nhưng tôi
cố gắng.
B: Ông ấy cảm
kích sự thấu hiểu của bà nhưng ông ấy nói rằng bà phải nhận ra
rằng ông ấy phải đối phó với nhiều sự ngu dốt hơn hẳn bà từng phải
để cố gắng bày tỏ. Ông ấy nói rằng một vài dạng thức của sự ngu
dốt là y hệt không đổi xuyên qua nhiều thế kỷ, và những thứ khác
thì đã thay đổi, nhưng đó là cuộc sống mà.
D: Ông ấy có
bao giờ gặp nguy hiểm từ nhà thờ bởi vì những thứ mà ông ấy làm
chưa?
B: Ông ấy nói
rằng đã có vài lời đe dọa được đưa ra. Nhiều lời đe dọa khác nhau
của nhà thờ, cố để lôi kéo ông ấy và bắt ông ấy làm theo mệnh lệnh
của họ. Nhưng ông ấy nói rằng ông ấy đã có thể xoay sở được để
đánh lừa được họ và là chính bản thân mình (*sống đúng với bản
thân).
D: Họ đã bắt
ông ấy tiên đoán nhiều thứ cho nhà thờ sao?
B: Họ đã cố
để bắt ông ấy không được công khai một số lời tiên đoán nhất định.
Họ đã cố để gài bẫy ông ấy với vài trong số những lời tiên tri của
ông ấy, cố để khiến nó nghe như thể là ông ấy đã tiếp tay cho dị
giáo. Họ đã cố để đút lót tiền bạc và hâm dọa tống tiền ông ấy.
Và họ đã cố để bắt ông ấy thay đổi những lời tiên tri nhất định để
phù hợp với nhu cầu của họ. Ông ấy nói rằng nhà thờ không phải là
một tổ chức tôn giáo. Nó là một trong những tổ chức chính trị lớn
nhất thế giới. Và vì vậy thật sự – ông ấy đã mượn một cụm từ từ
tôi vào lúc này – Ông ấy nói rằng họ không quan tâm, họ chả quan tâm
tới cái quái gì cả. Khi ông ấy thấy cụm từ này trong đầu tôi, ông
ấy đã hỏi tôi “cái quái” (*a fig trong ‘not give a fig’) là cái gì.
(Cười) Nhà thờ chả quan tâm tới cái quái gì về những khía cạnh
thuộc về tôn giáo cả. Ông ấy nói rằng họ dùng tôn giáo để giúp
thực hiện những thao túng chính trị. Và họ làm vậy để làm cho mọi
thứ trở nên tiện lợi cho họ.
D: Ông ấy có
ý nói rằng họ có thể cố thay đổi những bài thơ bốn câu không?
B: Vâng, cả
điều đó nữa. Bởi vì họ đang muốn thay đổi chúng theo cách nào đó
và họ sẽ không bị phát hiện là đang cố đổi, ông ấy biết là nếu ông
ấy dùng từ theo cách mà ông ấy đnag dùng, chúng không thực sự có
nghĩa gì với những tu sĩ và những người sẽ đọc nó. Vậy nên họ sẽ
không biết chỗ nào để thay đổi theo cách mà họ muốn.
D: Rất thông
minh. Nhưng vài thứ trong số này có lẽ đã bị thay đổi rồi. Đó là
điều chúng ta đang cố gắng tìm ra.
B: Ông ấy nói
rằng theo những gì mà ông ấy có thể nói, những tu sĩ thực sự đã
không đủ năng lực để thay đổi những bài thơ bốn câu của ông ấy. Vài
thay đổi nào giờ đã xảy ra là bởi vì cách bố trí tệ hơn là những
sai biệt do cố ý. Ông đang cho rằng chúng ta đã biết rằng bấy lâu nay
cũng đã có những bản dịch tệ hại nữa.
Ông ấy nói
rằng bất cứ khí nào ông ấy nhìn vào tương lai, những nơi đó, nơi mà
không có điều gì quan trọng đang diễn ra trông có vẻ mịn màng như lụa
vậy. Nhưng những nơi mà thứ gì đó quan trọng chủ yếu đang diễn ra,
nó trông như một nếp nhăn trên vải vóc – một chỗ rối trên tấm vải
với tất cả những sợi chỉ mắc míu vào nhau. Nó lôi kéo sự chú ý
của ông ấy về phía nó, và ông ấy nhìn gần hơn để nhìn xem nó là
gì. Ông ấy nhìn lướt qua những gì đang diễn ra xuyên qua nhiều vòng
lặp và nút chỉ thắt khác nhau, thứ mà lộn xộn ở đó trên tấm vải.
Và những sự kiện lớn hơn tạo thành một khối hỗn loạn lớn hơn, và
vì vậy thật dễ dàng để nhìn ra được chúng. Đó là lý do tại sao
nhiều bài thơ của ông ấy phải có liên quan tới những thứ đau khổ, như
là chiến tranh thôi. Bởi vì chúng quá rõ ràng để nhìn thấy được và
thỉnh thoảng, thật khó để đi vòng quanh những nơi này trong dòng thời
gian mà không đi qua vài trong số chúng để nhìn xem điều gì đang xảy
ra. Ông ấy nói rằng nó thật khó để giải thích nhưng ông ấy lúc nào
cũng sẽ cố gắng, như là bây giờ vậy, để giải thích điều gì xảy ra
khi ông ấy nhìn vào thời gian.
D: Người dịch
nghĩa trong quyển sách tôi đang dùng nói rằng cô ấy có cảm tưởng
rằng ông ấy đã viết những bài thơ bốn câu bằng tiếng Latin ở bản
gốc, trước khi ông ấy chuyển chúng thành tiếng Pháp. Điều này có đúng
không?
B: Ông ấy nói
rằng cái cách mà tình huống là, trong ý thức của ông ấy, sẽ giống
như là một tấm bảng trống để viết lên và những từ ngữ sẽ xuất
hiện để giúp ông ấy giải nghĩa những khái niệm mà ông ấy có thể
đang nhìn thấy. Ông ấy hẳn sẽ không ý thức được vào lúc đó về ngôn
ngữ mà chúng được viết cho tới khi ông ấy đã viết chúng xuống rồi.
Chúng thường bằng tiếng Latin nhưng không phải luôn như vậy. Sau đó ông
ấy sẽ dịch chúng thành tiếng Pháp bởi vì ông ấy đang viết điều này
cho những người bình thường và không phải cho giới tăng lữ.
D: Vậy là ông
ấy sẽ không thực sự ý thức được bất kỳ thứ gì mà ông ấy đã viết
cho tới khi ông ấy ra khỏi trạng thái nhập định (xuất thần)?
B: Điều này
đúng. Ông ấy nói rằng trong khi ông ấy ở vào trạng thái nhập định,
ông ấy đã điều khiển được đôi tay mình để viết, nhưng ông ấy sẽ không
biết tại sao ông ấy lại đang viết. Những thế lực từ phía bên kia tấm
gương sẽ cầm tay hướng dẫn ông ấy. Khi ông ấy quay trở lại, ông ấy sẽ
biết những gì mà ông ấy đã nhìn thấy nhưng ông ấy sẽ không biết
những gì ông ấy đã viết.
D: Vậy câu đố
mà ông ấy đưa vào, được thực hiện trong khi ông ấy đang nhập định hay
là trong khi ông ấy đã ý thức?
B: Trong khi ông
ấy đang nhập định.
D: Vậy là ông
ấy đã không tạo ra những câu đố này một cách có ý thức.
B: Không. Ông
ấy nói rằng ông ấy có thể làm nó, và ông ấy thường liên lạc thư từ
riêng tư theo cách này, nhưng nó sẽ không hoàn toàn quá phức tạp vì
những điều này được thực hiện trong khi ông ấy đang nhập định. Khi ông
ấy bước ra từ tấm gương (*thoát khỏi trạng thái nhập định), ông ấy
nói rằng ông ấy hẳn sẽ kinh ngạc trước độ phức tạp của câu đố. Ông
ấy hẳn sẽ biết tất cả ý nghĩa và sự phân chia tầng mức của những
ý nghĩa và những ẩn ý có liên quan từ những gì ông ấy đã nhìn
thấy. Nhưng ông ấy nói rằng có vài yếu tố khác, ngoài tâm trí ý
thức của ông ấy, mà giỏi điều khiển những từ ngữ trở thành những
câu đố này. Ông ấy nói rằng khi ông ấy đang nhập định, ông ấy sẽ
nhìn thấy vài thứ, một khung cảnh ngay sau một khung cảnh khác. Và
khi ông ấy bước ra, thỉnh thoảng duy chỉ một bài thơ đã được viết.
Và ông ấy sẽ thấy rằng mặc dù ông ấy đã nhìn thấy vài sự kiện
khác nhau, tất cả chúng đều có liên quan đến một bài thơ bốn câu (duy
nhất) đó.
D: Chúng thật
quá phức tạp, nó có vẻ như vượt quá khả năng của một người bình
thường. Một người hẳn phải là một bậc thầy sáng tạo ra những câu
đố. Tôi bây giờ có thể đánh giá đúng hơn một chút về độ khó khăn
mà một con người bình thường gặp phải khi cố gắng giải nghĩa những
câu đố này.
B: Điều này
đúng. Ông ấy nói rằng đây là lý do cho tầm quan trọng của dự án
này. Để giúp đỡ vài con người để thiết lập lại kết nối với khía
cạnh đó của cuộc sống, thứ mà có thể giúp giải nghĩa những bài
thơ bốn câu này.
Điều này đã
nghe như một trường hợp đặc biệt về hiện tượng viết vô ý thức. Nhiều
người có khả năng làm điều này trong khi đang thức lẫn đang được thôi
miên (nhập định), và thường những thứ xuất hiện trước cá nhân một
người theo cách này là hoàn toàn xa lạ đối với họ. Người ta đã
tranh luận rằng nó chỉ đơn giản là tiềm thức của một người đang làm
việc và không phải là một thực thể tách rời đang điều khiển tay họ.
Vấn đề có thể được đem ra tranh luận xoay quoanh những gì đang diễn ra
trong trường hợp của Nostradamus.
D: Xuyên suốt
lịch sử, thỉnh thoảng, những người cầm quyền khác nhau đã cố gắng
thay đổi vài ý nghĩa để nói rằng ông ấy đang dự đoán những điều về
họ.
B: Vâng. Ông ấy
cười khúc khích và nói rằng đó là một trò chơi khá phổ biến rất
hay được tìm thấy giữa những người cầm quyền.
D: Những câu
đố của ông ấy, những phép đảo chữ và những ý nghĩa từ ngữ khác
nhau cũng tạo nên nhiều vấn đề.
B: Ông ấy nói
rằng đó là lý do tại sao ông ấy mừng vì có thể khởi động dự án
này.
Điều này
đúng. Ông ấy thực sự đã khởi động nó. Ý tưởng này sẽ không bao giờ
xảy đến với tôi. Tôi đã rất ngạc nhiên khi đầu tiên ông ấy bắt đầu
nói chuyện với tôi thông qua Elena.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy đã biết là bà sẽ ngạc nhiên, nhưng ông ấy đã biết rằng
bà sẽ cởi mở với việc giao tiếp, cái mà là điều thuận lợi của ông
ấy.
D: Vâng, bởi
vì sự hiếu kỳ của tôi hẳn sẽ không để một cơ hội như vầy trôi tuột
qua mà không nắm bắt lấy nó. (Cười) ông ấy đã chọn được một người
hiếu kỳ.
B: Ông ấy nói
rằng hãy cho ông ấy một người hiếu kỳ vào bất cứ ngày nào trong
tuần còn hơn là một kẻ tự mãn. Bởi vì một kẻ tự mãn dựng nên
những bức tường cô lập chính họ và họ rất thiển cận bởi vì họ
biết mọi thứ rồi. Nhưng người hiếu kỳ thì nói, “Tôi có thể biết
chỉ một chút nhưng luôn còn có thứ gì đó để học hỏi, và tôi muốn
biết điều gì đã khiến thứ nào đó xảy ra.”
D: Vậy là ông
ấy hiểu tôi đấy.
Tại sao nó
lại quá quan trọng đối với ông ấy rằng ông ấy phải để những bài thơ
bốn câu này được giải nghĩa chính xác trong khoảng thời gian của
chúng ta?
B: Ông ấy nói
rằng, một lời tiên tri còn cái gì tốt nữa nếu từ ngữ bị sai? Một
lời tiên tri phải chính xác để nó có thể giúp ích được. Khi bà
nhìn thấy trước tương lai và bà tiên tri để giúp đỡ những người có
liên quan, làm sao nó có thể giúp đỡ gì được nếu như họ không thực
sự biết những gì mà bà đang cố diễn đạt. Nếu họ không nghe thấy sự
cảnh báo trước như nó được diễn tả một cách chân thật, thì sao mà
làm được gì về nó?
D: Đúng là
vậy. Bởi vì những bài thơ bốn câu của ông ấy là quá tối nghĩa, hầu
hết những lời tiên tri của ông ấy không được hiểu cho tới khi chúng
xảy ra, vậy thì nó đã quá trễ rồi.
B: Ông ấy chỉ
đã nhướng một bên chân mày và dường như cười và nói, “À, chúng ta
biết ai để buộc tội về điều đó.” Tôi nghĩ ông ấy đang nhắc tới Tòa
Án Công giáo hay là nhà thờ. – Ông ấy đã nói có một vấn đề đó là
những thứ mà ông ấy đang cố gắng giải thích là vô cùng vượt xa…
vượt quá tầm hiểu biết của loài người, và ông ấy chỉ có một vốn
ngữ vựng giới hạn thôi, để miêu tả chúng. Chúng vượt quá tầm hiểu
biết của người ta, họ đã không nhận ra ông ấy đang cố gắng miêu tả
điều gì cho tới sau khi họ đã nhìn thấy nó – bởi vì ông ấy đã mô
tả quá nhiều thứ chưa bao giờ được biết đến bởi loài người trước
đó. Vậy nên họ sẽ không có cách nào để nhận ra chúng cho tới khi chúng
đã được biết đến bởi loài người rồi.
D: Vâng, và sau
đó họ nói, “Đó là ý của ông ấy.” Nhưng điều này cũng đúng trong
Kinh thánh. Nó đã phải được viết dưới dạng những hình ảnh tượng
trưng bởi vì thỉnh thoảng những thứ họ nhìn thấy đã quá khó hiểu
đối với họ.
B: Vâng. Ông ấy
chỉ ra một tiểu ngôn sứ trong Kinh Cựu Ước, và ông ấy cười thầm về
điều này. Ông ấy nói rằng vị tiểu ngôn sứ này cũng đã tiên đoán
vài thứ trong số những thứ mà ông ấy đã tiên đoán, trong phạm vi mà
những thành tựu kỹ thuật được xem xét đến. Vì vài nguyên do, ông ấy
cảm thấy điều đó rất buồn cười.
D: Vị tiểu
ngôn sứ là ai vậy?
B: Tôi có cái
tên Zaphaniah. Có ai là Zaphaniah không?
D: Tôi nghĩ
vậy. Dĩ nhiên, vài thứ trong số những thứ mà ông ấy viết có thể đã
bị loại bỏ khỏi Kinh Thánh rồi.
B: Đúng là
vậy.
Tôi đã nghĩ
rằng ý ông ấy có thể là Zachariah. Tôi đã không nghĩ tôi từng đọc qua
quyển sách nào gọi là Zephaniah. Sau đó khi tôi tìm nó, tôi đã tìm ra
nó gồm chỉ một vài trang. Nó đã là cả một câu chuyện dài về sự
hủy diệt hàng loạt, rõ ràng bị gây ra bởi sự tức giận của Chúa.
D: Nói tôi biết
nếu ông ấy đang dần thấm mệt nhé.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy chịu được cho tới giờ này. Ông ấy không biết ông ấy có
thể chịu được tới khi nào hôm nay bởi vì kết nối giao tiếp có vẻ
nhưng không được rõ ràng như lần trước. Và ông ấy đang phải xử lý
một cách khó nhọc hơn để những hình ảnh có thể được hiểu rõ. Nhưng
đây là một dự án quan trọng đối với ông ấy, vậy nên ông ấy nói rằng
ông ấy không phiền khi phải tự gắng sức một chút đâu, nếu cần phải
thế.
D: Tôi không
muốn ông ấy làm tổn thương chính mình, tôi rất lo lắng về điều đó.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy có hệ thống này bố trí tới mức độ mà nó có thể sẽ
là hoàn toàn không thể để ông ấy làm điều gì gây tổn thương lâu dài
cho chính mình. Nếu ông ấy bắt đầu đi quá xa, ông ấy sẽ bị giật
ngược về trở lại… tôi muốn gọi nó là “phòng thí nghiệm” của ông
ấy. Và ông ấy nói rằng cao lắm là ông ấy sẽ có một cơn nhức đầu
trong vòng một vài ngày và chóng mặt, nhưng nó sẽ qua thôi. Ông ấy
nói rằng đó là lý do tại sao ông ấy kết nối với phương pháp giao
tiếp này. Ông ấy biết rằng có vài cách khác nhau để điều chỉnh sự
giao tiếp và liên lạc với thời đại của chúng ta. Nhưng ông ấy muốn
chắc chắn rằng ông ấy liên lạc với những người mà có thể làm việc
với những tri thức này mà không tự làm tổn thương chính họ, hay là
không xuyên tạc về những gì mà họ tìm ra.
D: Vâng. Có
thể có rất nhiều những thứ sai trái được làm với điều này, theo
nhiều cách. Và cũng có nhiều người khác, mà hẳn sẽ không quan tâm
gì tới phương tiện (*ý chỉ người trung gian như Brenda). Tôi rất cẩn
trọng theo cách này.
B: Ông ấy nói
rằng điều đó là quan trọng. Những phương tiện tốt rất khó tìm được
và bà phải chăm sóc tốt những phương tiện mà bà tìm được.
D: Và tôi cũng
sẽ thật cẩn thận trong những cách mà tôi viết những thứ này xuống,
để chúng được chân xác với những gì mà ông ấy nói nhất có thể.
B: Ông ấy nói
ông ấy cảm kích sự quan tâm mà bà dành ra. Nó sẽ gây ra những phiền
toái cho chính bà, nhưng ông ấy nói rằng rõ ràng bà đã đồng ý để
tiếp nhận điều này trước khi bà bước vào kiếp sống này. Từ khi bà
đồng ý để tiếp nhận nó, những sức mạnh của vũ trụ đã luôn ở phía
sau bà theo cái cách mà đó là tất cả mọi sự bảo vệ mà bà cần.
D: Được rồi,
bởi vì tôi chỉ là quá hiếu kỳ để buông nó xuống bây giờ.
Câu hỏi này
được đặt ra bởi một người quan sát ở một trong những buổi thôi miên.
Tôi đã không biết ai là Catherine de Medici. Sau đó khi tôi bắt đầu
nghiên cứu, tôi tìm ra rằng cô ấy là mẹ của ba vì vua của nước Pháp,
và đã có một quyền lực vô cùng to lớn đằng sau vương vị. Bà ấy đã
thường yêu cầu Nostradamus kể với bà ta những gì ông ấy đã nhìn thấy
trước về tương lai của những đứa con trai của bà ta và đất nước của
họ.
John: Biết một
ít về cuộc đời ông, việc phục vụ cho Catherine de Medici, mẹ của ba
vị vua vào lúc đó là như thế nào?
B: Ông ấy đang
lắc đầu và cười khúc khích. Ông ấy nói rằng nó giống như đang đi
trên một sợi dây thừng căng chặt giăng ngang một lò lửa vào những lúc
nào đó. Rằng bà ấy có một đầu óc nhạy bén và rất thú vị đối
người ta để được ở xung quanh. Nhưng các người không bao biết được bà
ấy sắp đánh vào từ hướng nào kế tiếp. Ông ấy nói rằng bà ấy đã
rất khôn ngoan và bà ấy đã có sự quan tâm của gia đình bà ấy, và
làm thế nào mà họ có thể đạt được nhiều quyền lực hơn luôn là tiên
quyết trong đầu của bà ấy toàn thời gian. Ông ấy nói rằng bà ấy
rất có tính thao túng. Nhưng mà bà ấy phải như vậy để sử dụng sức
mạnh và quyền lực mà bà ấy khao khát. Ông ấy nói rằng bà ấy thực
sự nên được sinh ra là một người đàn ông. Nhưng bà ấy lại sinh ra là
một phụ nữ và trong nền văn hóa của ông ấy vào thời đó, bà ấy đã
phải dùng nhiều phương cách để sử dụng những uy thế mà bà ấy cảm
thấy bà ấy nên sử dụng. Ông ấy nói rằng với sự kết hợp giữa loại
lá số tử vi bà ấy có và loại nghiệp lực (*nhân quả) mà bà ấy đã
có trong kiếp sống đó, nó đã là một kết quả thực sự thú vị. Khi
ông ấy ở cùng với bà ấy, ông ấy đã luôn phải sử dụng tài ngoại
giao giỏi nhất của mình, và nói chuyện với những từ ngữ nhẹ nhàng,
nhưng vẫn với vẻ thành thật, bởi vì nếu bà ấy nghĩ rằng ông ấy
đang cố để nói quanh co hay bịa chuyện về điều gì đó, bà ấy sẽ tức
giận nhất.
D: Bà ấy nghe
có vẻ như là một người rất khó để đối phó.
B: Bà ấy là
như vậy. Ông ấy nói rằng bà ấy lẽ ra sẽ là một người bạn thú vị
hơn rất nhiều, một người mà ngườ ta có thể thật sự có những trao
đổi trí tuệ đầy hào hứng, nếu không vì một sự thật là vị trí của
bà ấy.
D: Tôi quan tâm
tới cuộc sống cá nhân của ông ấy. Tôi không biết liệu tôi có đang tọc
mạch hay không, nếu tôi hỏi những câu hỏi về điều đó.
B: Ông ấy không
có vẻ như thoải mái lắm với ý tưởng này. Ông ấy bị bối rối. Ông
ấy đang nói, tại sao bà lại muốn biết về những thứ như vầy? Nó
không quan trọng với dự án của chúng ta. Nó không có liên quan gì tới
những gì chúng ta phải hoàn thành cả.
D: À, đã có
nhiều tiểu sử được in ra về cuộc đời của ông ấy và tôi đã tò mò
liệu chúng có đúng hay không thôi. Tôi đã muốn thu thập vài sự thật
để xác nhận những điều đó.
B: Ông ấy nói
rằng nó thực sự không quan trọng với ông ấy liệu chúng có chính xác
hay không. Ông ấy không quan tâm nếu như họ kể một sự bịa đặt đáng
kinh tởm về cuộc đời của ông ấy, miễn là họ giải nghĩa những bài
thơ bốn câu của ông ấy chính xác. Ông ấy cũng nói rằng đã tới lúc
ông ấy phải đi rồi. Tôi, phương tiện, nghi ngờ rằng ông ấy đang muốn
thoát ra khỏi những câu hỏi xa hơn mang tính chất này.
D: Được rồi.
Tôi đã không muốn làm ông ấy giận. Nhưng chúng ta cũng có đầu óc
hiếu kỳ về ông ấy như là một con người, cũng như là một nhà tiên
tri. Tôi không bao giờ biết liệu tôi có đang hỏi một câu hỏi làm mất
lòng hay không.
B: Tôi không
nghĩ rằng ông ấy bị làm mất lòng. Nó khá dễ để nói được khi ông
ấy bị làm mất lòng về điều gì đó. Nó dường như vang vọng lại từ
trong cơ thể của người giao tiếp. Nostradamus không những biến mỗi bài
thơ bốn câu thành một câu đố riêng biệt, mà còn biên soạn cả một
quyển sách thành một câu đố khổng lồ nữa. Dường như không có thứ tự
rõ ràng nào đối với sự sắp xếp của chúng. Tới khi tôi hỏi câu hỏi
này, chúng tôi đã giải nghĩa hơn 100 bài thơ và tôi đang cố để quyết
định xem sẽ sắp xếp chúng như thế nào.
D: Tôi đang cố
để đặt những bài thơ mà chúng ta đã giải nghĩa này vào một loại
thứ tự nào đó. Theo niên đại, nếu có thể. Và đây là một công việc
nặng nhọc đấy.
B: Ông ấy đang
trong tâm trạng tốt lần này và khi bà nói bà đang muốn đặt chúng
theo thứ tự, ông ấy đã hỏi một cách hài hước rằng, “Một thứ tự có
lô-gic hay một thứ tự phi lô-gic?”
D: (Cười) Có
khác nhau sao?
B: Ông ấy nói
nó phụ thuộc vào góc nhìn của bà.
D: (Cười) À,
đấy là một công việc đủ vất vả để cố gắng đặt chúng vào một loại
thứ tự theo niên đại nào đó ấy.
B: Ông ấy nói
rằng một thứ tự theo niên đại sẽ là một cách có lô-gic để thực
hiện nó. Một cách khác phi lô-gíc mà bà có thể làm đó là đặt
chúng theo thứ tự bảng chữ cái abc, dựa trên chữ đầu tiên của bài
thơ.
D: (Cười) Hay
cái cách mà ông ấy đã làm nó. Thứ mà tôi nghĩ là phi lô-gic đó.
B: Ông ấy nói
nó khác là có lô-gic. Nó được căn cứ vào những nguyên lý toán học
cao cấp và chính xác, xác định bởi việc gieo xúc xắc.
D: Đó là cách
mà ông ấy đã tìm ra thứ tự để đặt chúng theo sao?
B: Tôi không
chắc nữa. Ông ấy tràn đây năng lượng tối nay. Ông ấy đang ở trong một
tâm trạng rất tốt.
D: (Cười) Tôi
tưởng rằng ông ấy quẳng tất cả chúng vào với nhau và xáo trộn
chúng lên như một bộ bài. Và nói vậy, đây là cách mà chúng sẽ được
sắp xếp. Đó là chúng đã có lý cỡ tới nào với tôi đấy.
B: Ông ấy nói
rằng thực tế những gì ông ấy đã làm là đặt chúng vào sáu cụm,
mỗi cụm ứng với một mặt của một con xúc xắc. Và ông ấy sẽ gieo con
xúc xắc, và khi ông ấy nhận được một con số hai lần ông ấy sẽ lấy
một số ngẫu nhiên từ cụm đó, cái mà con số đó mô tả, và đặt nó
kế quyển sách của ông ấy. Nhưng nếu ông ấy nhận được hai con số khác
nhau, ông ấy sẽ cộng hai số đó lại và chia chúng cho một con số thập
phân để thu được một con số, để chọn ra một bài một cách ngẫu nhiên
từ một cụm khác.
D: Tôi cho rằng
đó là một hệ thống tốt như mọi hệ thống vậy. Tôi đã không biết
rằng họ có xúc xắc ở thời đại của ông ấy đấy.
B: Ông ấy nói
rằng xúc xắc đã ở đó được nhiều thế kỷ rồi. Hình dạng và kích
thước của chúng thỉnh thoảng có thể thay đổi nhưng nguyên lý thì là
như nhau. Ông ấy đang gọi chúng là xúc xắc bởi vì đó là cái chúng
ta có mà có liên quan tới cái ông ấy đã dùng.
D: Tôi đã
tưởng rằng có lẽ khi tôi cuối cùng cũng kết thúc dự án này, tôi sẽ
thấy được một loại khuôn mẫu gì đó mà ông ấy đã dùng, có lẽ là
dùng toán học, nếu có bất kỳ khuôn mẫu gì ở đây.
B: Ông ấy nói
rằng không nghi ngờ gì, có một khuôn mẫu ở đó, nhưng nó sẽ khá khó
khăn để tìm ra đấy. Và ông ấy nói, đừng bị hoảng lên nếu bà không
tìm ra nó. Bởi vì ông ấy đã đang khiến nó tối nghĩa một cách cố ý
để khiến nó khó khăn cho một số đảng phái nhất định – và đó là
những lời của ông ấy – những đảng phái nhất định để tìm ra ông ấy
đang nói điều gì.
D: Được rồi,
vậy tôi sẽ không kỳ vọng sẽ tìm ra bất kỳ khuôn mẫu nào nữa. Nó
giống như là xáo trộn chúng lên hết vào ném chúng đi vậy.
B: Ông ấy nói
rằng có một khuôn mẫu ở đó. Chỉ là nó quá phức tạp về mặt toán
học để người bình thường có thể nhìn ra được.
D: À, đó là
điều chính yếu mà tôi đang tự hỏi, ông ấy đã quyết định về thứ tự
của chúng như thế nào.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy hy vọng rằng sự giảng giải của ông ấy đã hỗ trợ bà
trong điều này.
D: Nhưng cô có
thể thấy công việc mà ông đưa cho tôi bây giờ, cố để sắp xếp lại
chúng theo thứ tự mà chúng vốn nên theo.
B: Ông ấy nói
thứ tự theo niên đại là đủ rồi.
D: Thỉnh
thoảng nó thật khó để tìm ra. Nó quá khó khăn bởi vì chúng thường
nhắc đến nhiều hơn một sự kiện và những sự kiện lại ở trong những
khoảng thời gian khác nhau.
B: Ông ấy nói,
vậy thì bà thêm chúng vào hai lần. Mỗi lần cho một khoảng thời gian.
D: Đó là điều
mà tôi đang cố gắng làm đó, đề cập tới lui về những bài khác nhau.
Nó khó đấy. Nó là một công việc khá vất vả để làm.
B: Ông ấy nói
rằng ông ấy không muốn nghe về những khó khăn để viết của bà. Ông ấy
nói rằng, sự học hỏi tại thời điểm này mà các người – người ở
thế kỷ thứ 20th đang có là quá dễ dàng. Các người không cảm kích
việc các người đang có nó một cách dễ dàng như thế nào. Tôi không
muốn nghe bất kỳ điều gì về nó. Bà ấy không hề có Tòa Án Công
giáo phà hơi thở vào cổ mình toàn thời gian. Bà ấy không phải đặt
mọi thứ vào những câu đố chỉ để giữ cho cơ thể và tâm hồn bà ấy
còn được kết nối với nhau. Bà ấy – ông ấy chỉ là đang càm ràm chung
chung – Bà ấy không phải làm điều này, bà ấy không phải làm điều
kia. – Tôi không muốn nghe nó. Tôi muốn hoàn thành dự án này. – Ông ấy
đang nói rằng những lời than phiền mà bà có về những thứ cản trở
sự viết sách của bà chỉ là nhỏ xíu xiu thôi và không có gì quan
trọng, so với những vấn đề mà ông ấy gặp phải khi ông ấy đang viết.
Tôi đã phải
cười; sự tuôn trào (*của Nostradamus) đã khiến tôi hoàn toàn kinh
ngạc. Ông ấy đã có thể thường xuyên thể hiện ra những sự biến đổi
khó lường trước được của cảm xúc. Tôi nhất định đã không cố ý làm
ông ấy giận.
D: Và những
dụng cụ để viết của tôi thì dễ sử dụng hơn rất nhiều.
B: Phải.
D: Được rồi.
Tôi xin lỗi. Đây là phần mà tôi phải tìm ra.
B: Phải, ông
ấy nói rằng đó là vấn đề của bà. Ông ấy nói, Tôi không thể đưa cho
bà tất cả mọi thứ cho những quyển sách của bà, bà biết đó. Bà
phải đặt một chút gì đó của bà vào trong nó.
Tôi đã cảm
thấy như một nữ sinh lần nữa, bị la mắng tức giận bởi một người
thầy. Bị quở trách đã đủ, tôi có thể vẫn cảm thấy một hàm ý của
tình thương và sự thấu hiểu ẩn dưới sự cộc cằn của ông ấy. Ông ấy
đã đúng, ông ấy đã hoàn thành phần của mình trong dự án này 400 năm
về trước. Phần này của dự án phải là trách nhiệm của tôi.
Ông ấy thường
làm điều này khi tôi hỏi ông ấy về thứ tự của những bài thơ bốn câu
nhất định và mối tương quan về mặt thời gian của chúng với nhau. Ông
ấy có thể sẽ nói rằng ông ấy chỉ đang giải nghĩa bài thơ bốn câu
mà chúng ta đang làm việc căn cứ vào, lúc đó. Đặt chúng vào với
nhau là việc của tôi. Vậy nên ông ấy chắc chắn đã không chỉ là đưa
tận tay tôi mọi câu trả lời mà thôi.
Lưu ý: Nhiều
thông tin hơn đã đưa đưa ra về hệ thống đánh số của những bài thơ bốn
câu vào năm 1994, khi câu hỏi được hỏi một lần nữa cho một chương
trình truyền hình. Điều này được trình bày trong phần Phụ Lục ở
cuối quyển sách này, phần mà được thêm vào bản in lại năm 1996.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.