Teal Swan Transcripts 768 - 💛🩹🌿Vì sao hầu hết mọi người không nhận ra mình cần chữa lành

 

Teal Swan Transcripts 768


Vì sao hầu hết mọi người không nhận ra mình cần chữa lành

 

28-06-2025




Mỗi người trong chúng ta đều đã trải qua một dạng sang chấn nào đó trong đời. Nhưng khi trải nghiệm sang chấn, phần lớn mọi người chỉ đối phó với nó. Việc đối phó rất khác với chữa lành. Tuy nhiên, các cơ chế đối phó lại khiến con người ảo tưởng rằng mình ổn. Điều này càng nghiêm trọng hơn bởi xã hội không chỉ dung túng và ủng hộ việc đối phó, mà còn mù mờ hoàn toàn trước sang chấn. Kết quả là chúng ta đang sống trong một xã hội đầy những con người bị tổn thương nhưng không thấy rằng mình đã từng trải qua sang chấn; một xã hội đầy những người cần chữa lành nhưng không biết rằng họ cần chữa lành.

 

Trong video hôm nay, chúng ta sẽ nhìn sâu vào những lý do chính khiến hầu hết mọi người không nhìn thấy hay không nhận ra các sang chấn của mình. Hãy bắt đầu với lý do tại sao mọi người không thấy hoặc không nhận ra sang chấn của họ. Sau tất cả, có vẻ khá kỳ lạ khi chúng ta lại không thấy được những sang chấn - trong khi chúng là những điều nổi bật nhất trong đời sống của mỗi người. Thực ra có một vài lý do then chốt khiến điều này xảy ra.

 

#1. Vấn đề đầu tiên bắt nguồn từ định nghĩa sai lệch của mọi người về “sang chấn”.

 

Khi đa số nghĩ về sang chấn, họ chỉ nghĩ đến những điều họ đánh giá là thật sự lớn: như bị buôn bán tình dục, hoặc gặp tai nạn xe ở tốc độ cao khiến họ mất đi người thân yêu. Nhưng thực tế, sang chấn là bất kỳ tình huống nào khiến bạn rơi vào trạng thái đau khổ mà không được giải quyết. Điều này có nghĩa sang chấn không chỉ là những điều “to lớn” mà ta thường gắn với từ này. Nó cũng bao gồm:

 

- một em bé bị cai sữa đột ngột và không thể hiểu vì sao mình bị tách khỏi nguồn tiếp xúc, an ủi, nuôi dưỡng và cảm giác dồi dào;

- những trải nghiệm lặp đi lặp lại trong thời thơ ấu khiến một đứa trẻ cảm thấy mình không thuộc về hoặc không được chào đón;

- mô thức mà ai đó không được công nhận bản sắc và tính chân thật của mình chỉ vì họ bị mong đợi phải trở thành đúng cái mà gia đình muốn;

- việc mất đi con mèo trong nhà;

- sự thân mật cảm xúc mà ta chưa bao giờ được nhận;

- bất kỳ trải nghiệm nào trong đó ta rơi vào trạng thái đau khổ nhưng nỗi đau ấy không bao giờ được giải quyết, và ta chỉ đơn giản thích nghi với nó.

 

Hầu hết mọi người không có ý thức rõ ràng về mức độ mà từng sang chấn - những cái họ xem là nhỏ hoặc thậm chí không nhận ra - đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời họ. Khi một sang chấn xảy ra, ta gán cho trải nghiệm đau đớn ấy một ý nghĩa nào đó. Ý nghĩa đó thay đổi cách ta nghĩ, các quyết định ta đưa ra, lựa chọn ta chọn, các hành vi ta thể hiện - và cả cuộc đời ta.

 

#2. Sự “bình thường hóa”.

 

Có lý do vì sao trong những nền văn hóa từng thực hành hiến tế, chẳng ai cảm thấy khủng khiếp khi chứng kiến một người bị giết trong nghi lễ. Có lý do vì sao ở thế kỷ 11, chẳng ai thắc mắc việc không dùng nĩa - vì nĩa bị xem là phạm thượng. Có lý do vì sao vào thập niên 1950, chẳng ai nghĩ gì khi thấy phụ nữ mang thai hút thuốc, uống rượu. Lý do là: những điều đó được xem là bình thường.

 

Con người có xu hướng thích nghi với bất cứ hoàn cảnh nào họ sống trong đó, rồi chấp nhận nó. Điều này càng đúng hơn khi ta còn là trẻ con - ta không biết gì hơn, không biết điều gì khác ngoài thứ đang diễn ra trước mắt. Những gì thường xuyên xuất hiện trong môi trường của ta trở thành định nghĩa của ta về “bình thường”.

 

Vậy, thế nào là bình thường?

Bình thường là những gì phù hợp với chuẩn mực, là phổ biến, thường thấy hoặc được mong đợi. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ: “bình thường” không phải là thước đo của sức khỏe.

 

Đó là lý do câu nói nổi tiếng của Krishnamurti lại đúng đến vậy: “Không thể xem là khỏe mạnh nếu chúng ta thích nghi tốt với một xã hội bị bệnh trầm trọng.”

 

Nhận thức được điều này là cực kỳ quan trọng. Cái “bình thường” có thể trở thành chiếc kính che mắt, khiến ta phủ nhận, vô thức, và mãi mãi - thật sự là mãi mãi - không thể chữa lành hoặc phát triển.

 

Nhiều thứ đã có tác động tiêu cực sâu sắc - hoặc thậm chí tích cực - lên bạn, bạn có thể hoàn toàn không nhận ra, bởi vì bạn xem chúng là bình thường. Nếu bạn xem điều gì đó là bình thường, nó sẽ không nổi bật, không thu hút sự chú ý của bạn. Bạn có thể hoàn toàn bỏ qua nó.

 

Ngoài ra, xu hướng này còn có thể đi xa hơn chỉ là việc không nhận ra điều gì sai lệch khi nó là chuẩn mực. Nó còn có thể trở thành một cơ chế đối phó tiêu cực. Khi ta “bình thường hóa” điều gì đó, ta có thể tránh né nỗi đau khi phải nhìn nhận rằng một điều gì đó thực sự không đúng, không lành mạnh.

 

Ví dụ, hãy tưởng tượng khi còn nhỏ, việc cả cha mẹ đều vắng nhà cả ngày để đi làm là điều phổ biến. Vì sao? - Vì nó bình thường.

 

Chúng ta không nhìn thấy sự thiếu thốn cảm xúc mà mình từng chịu đựng bởi vì ta đã xem nó là chuyện bình thường. Ta không thấy rằng sự thiếu thốn cảm xúc ấy đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm lý của mình.

 

Ví dụ, ta không nhận ra nó đã dẫn đến mô thức chọn những người bạn đời không sẵn sàng gắn kết khi ta trưởng thành, để rồi cuối cùng rơi vào trầm cảm và cô đơn đến mức phải dùng thuốc tâm thần - chỉ vì điều đó từng là “bình thường”. Chúng ta không thấy được cấu trúc xã hội của mình thực chất không lành mạnh đến mức nào. Vậy nên ta chẳng làm gì để thay đổi nó. Ta cũng không cần phải nhìn nhận rằng cha mẹ từng làm tổn thương mình theo bất kỳ cách nào, nên ta tránh được việc phải thừa nhận sự rạn nứt giữa mình và họ. Ta có thể đi đúng con đường họ đã đi, qua đó xác nhận những gì họ đã làm với ta - điều này, nhân tiện, còn tạo ra cảm giác gần gũi, vốn cực kỳ quan trọng đối với một loài mang tính xã hội như con người. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ: hệ quả vẫn tồn tại, chỉ là ta không thể quy nó về một nguyên nhân - chứ đừng nói đến việc xác định đúng nguyên nhân.

 

Đi theo hướng này, điều luôn song hành với bình thường hóa là sự xem nhẹ. Xem nhẹ nghĩa là khiến điều gì đó trông có vẻ ít quan trọng hơn. Và con người làm điều này mọi lúc. Khi bạn dùng sự xem nhẹ chống lại chính mình, đó là một dạng tự lừa dối. Bạn làm vậy để tránh việc phải đối diện và xử lý cảm xúc tiêu cực cùng những niềm tin đau đớn gắn liền với chúng - bằng cách giảm mức độ nghiêm trọng và tầm quan trọng của sự kiện đã tạo ra các cảm xúc và niềm tin đó. Bạn làm vậy để tránh xung đột trong các mối quan hệ. Việc này cho phép ta lý giải, biện minh và phủ nhận.

 

Khi nói đến bình thường hóa, cách yêu thích nhất để ta xem nhẹ chính là so sánh. Những câu như: “Tôi chỉ trải qua mấy chuyện bình thường thôi, đâu có tệ như mấy đứa xuất thân từ gia đình nghiện rượu, hoặc như mấy đứa trẻ ở các quốc gia phải làm việc trong xưởng may.”

 

Bình thường hóa khiến quá trình nhận ra, thừa nhận và thay đổi một mô thức trở nên hoàn toàn bất khả thi.

 

Cũng có một niềm tin ngầm rằng: nếu điều gì đó là bình thường, nếu ai cũng làm nó hoặc đó là cách mọi thứ luôn được làm, thì nó chắc chắn phải đúng hoặc tốt. Xu hướng đồng nhất “bình thường” với “đúng” hoặc “tốt” có thể cực kỳ - và tôi muốn nói là cực kỳ cực kỳ - nguy hiểm.

 

Cũng có kỳ vọng rằng: nếu điều gì đó là bình thường, thì nó sẽ không gây hại cho ai. Nhưng chỉ vì điều gì đó bình thường không có nghĩa nó đúng hay tốt. Và chỉ vì điều gì đó từng là hoặc đang là chuẩn mực, không có nghĩa tác động tiêu cực của nó tự nhiên biến mất. Những gì bạn từng trải nghiệm chắc chắn đã ảnh hưởng đến quỹ đạo cuộc đời bạn, bất kể chúng có phổ biến hay “bình thường” hay không. Những điều mà bề ngoài bạn xem là chẳng đáng kể thật ra có thể chính là những sang chấn đang âm thầm hủy hoại cuộc đời bạn hôm nay.

 

#3. Chúng ta học cách diễn giải mọi thứ theo đúng khuôn mà người khác bảo ta phải nhìn hoặc thể hiện rằng ta nên nhìn.

 

Nếu người khác không nói rằng điều ta trải nghiệm là sang chấn, và không cư xử như thể điều đó là sang chấn - thậm chí tệ hơn, nếu họ phủ nhận hoàn toàn trải nghiệm ấy - ta thường sẽ tiếp nhận cách nhìn của họ. Điều này có thể diễn ra từ mức độ nhẹ như một người sống trong câu chuyện “gia đình tôi là tốt nhất” và vì thế loại bỏ mọi trải nghiệm không phù hợp với câu chuyện đó… cho đến mức cực đoan như gaslight hoàn toàn và lạm dụng thao túng tâm trí.

 

Chúng ta vừa nói về bình thường hóa rồi đúng không? Vậy thì đoán xem: bình thường hóa cũng có thể được dùng như một chiến thuật kiểm soát xã hội, được dùng để làm người khác chai lì trước thứ đáng lẽ gây đau đớn, để khiến họ chấp nhận hoặc đồng ý với nó. Đây chính là cách mà việc bình thường hóa những hành vi lệch lạc có thể hình thành.

 

Nhiều người dễ nghĩ rằng bình thường hóa như một chiến thuật kiểm soát chỉ được dùng bởi những kẻ thái nhân cách, những kẻ lệch lạc hay những kẻ lạm dụng đối với nạn nhân. Nhưng không phải vậy. Thật ra, cha mẹ rất hay dùng chiến thuật này để biện minh cho hành vi của mình. Nhiều người khi đối diện cha mẹ về một việc gì đó trong quá khứ thường nghe câu đáp: “Cha mẹ nào chẳng làm vậy. Con còn được đối xử tốt hơn bao nhiêu đứa khác nữa.”

 

Khi ta trải nghiệm điều gì đó như một sang chấn, nhưng người khác lại cư xử theo cách phủ nhận đánh giá ấy, điều đó khiến ta bắt đầu nghi ngờ hoặc đặt câu hỏi về chính cảm nhận của mình. Và nhiều người đối phó bằng cách đơn giản tiếp nhận câu chuyện bên ngoài kia như thể nó là sự thật.

 

Đó là lý do vì sao bạn sẽ nghe rất nhiều người - những người lớn lên với việc nỗi đau của họ bị đáp lại bằng câu: “Ừ, chuyện nó như vậy đó,” hoặc “Ngày xưa là vậy mà” - sau này lại đáp lại nỗi đau của chính mình và của người khác bằng câu: “Thì đó là chuyện bình thường thôi.”

 

#4. Việc thừa nhận sang chấn có thể rất đáng sợ vì những gì nó kéo theo đối với bản thân và cuộc đời chúng ta.

 

Chúng ta sống trong một thế giới nơi nhu cầu chữa lành vẫn bị kỳ thị. Xã hội vẫn gây áp lực buộc mọi người phải luôn mạnh mẽ, gọn gàng, hoàn hảo. Điều này thật bi kịch. Với nhiều người, việc xem bản thân là người cần chữa lành đồng nghĩa với việc phải thừa nhận rằng: họ không hoàn hảo, họ không ổn hết mọi mặt, họ không “đúng” hoặc không “tốt”.

 

Điều đó khiến họ cảm thấy tồi tệ về chính mình. Nó khiến họ sợ bị người khác đánh giá, và cảm giác như họ đang phơi bày mình ra - yếu đuối, kém cỏi, thua kém.

 

Con người cũng cực kỳ ghét cảm giác bất lực. Và việc thừa nhận rằng mình cần chữa lành đồng nghĩa với việc thừa nhận rằng ta đã bị ảnh hưởng bởi điều gì đó, rằng ta có thể bị tổn thương bởi người khác hoặc sự kiện nào đó - và rằng điều đó đã xảy ra. Bên cạnh đó, hầu hết chúng ta xây dựng một dạng ổn định cho cuộc đời mình dựa trên câu chuyện mà ta kể cho bản thân, và dựa trên những niềm tin ta có về chính mình, về người khác và về thế giới.

 

Và đoán xem? Thừa nhận sang chấn có thể phá hủy hoàn toàn câu chuyện đó cũng như những niềm tin ấy. Điều này ném chúng ta vào cảm giác không an toàn và bất ổn.

 

Tất nhiên, có thể dễ dàng lập luận rằng nếu câu chuyện của một người được xây dựng dựa trên điều gì đó thật sự vững chắc, thì họ đã không rơi vào tình huống này. Điều đó có nghĩa là sự ổn định mà họ cảm nhận trước đó thật ra chỉ là ảo tưởng. Chúng ta có thể phải chấp nhận những điều đau đớn và đáng sợ đến mức khiến ta nghi ngờ khả năng của chính mình - nghi ngờ liệu ta có thể chịu đựng nổi hay không.

 

Việc phủ nhận sang chấn có thể là một cách mạnh mẽ để tạo khoảng cách giữa bạn và một trải nghiệm quá sức chịu đựng. Nhờ đó, bạn cố gắng tránh một cuộc “sụp đổ thực tại” hoặc tránh cho hệ thống tâm lý của mình bị quá tải.

 

Thừa nhận sang chấn cũng có thể làm xáo trộn các mối quan hệ. Ví dụ, nếu ta thừa nhận sang chấn xảy ra trong gia đình gốc, ta có thể lập tức đối diện sự thật rằng các hệ thống gia đình thường kháng cự dữ dội với thay đổi. Ta có thể bị chính gia đình mình xa lánh, và việc ngồi vào một bữa tiệc Giáng Sinh bình thường cũng trở nên cực kỳ khó khăn. Ta có thể đối mặt cả một loạt hậu quả xã hội khi thừa nhận sang chấn. Hoặc thậm chí, khi ta bước vào quá trình nhận diện sang chấn, ta có thể phát hiện rằng những mối quan hệ hiện tại của mình thật ra không chân thật với con người mình, hoặc không hề tốt cho mình. Và như vậy, ta có thể đối mặt với cảm giác cô đơn sâu sắc và nỗi sợ rằng cả vòng tròn xã hội của mình có thể phải thay đổi. Điều này cực kỳ khó đối với một loài sống dựa vào sự gắn kết như con người. Chúng ta rất sợ mất sự kết nối và sự hòa hợp với những người trong đời mình.

 

Thừa nhận sang chấn có một cách rất kỳ lạ: nó làm thay đổi mọi thứ trong cuộc sống của ta. Nếu ta bắt đầu chữa lành sang chấn của mình, hiển nhiên những điều phát sinh từ sang chấn ấy cũng sẽ thay đổi theo. Và con người thì rất sợ thay đổi - đến mức kháng cự mãnh liệt với nó.

 

#5. Ký ức về các trải nghiệm sang chấn thường bị dồn nén.

 

Tâm trí vô thức sẽ tiếp quản những gì gây cản trở cho tâm trí có ý thức. Tuy nhiên, có lúc tâm trí vô thức tiếp quản vì mục đích sinh tồn. Và cơ chế này - vốn có lợi trong ngắn hạn - lại có thể gây hại vô cùng sâu sắc về lâu dài.

 

Ví dụ: nếu ba mẹ bạn ly hôn khi bạn còn nhỏ, bạn có thể đã dồn nén ký ức về việc mình trốn dưới hiên nhà để nghe họ la hét và ném đồ vào nhau. Bạn có thể đã dồn nén cả ký ức sáng hôm sau khi một trong hai người không còn ở đó nữa, và cả quyết định mà bạn vô thức đưa ra lúc ấy: rằng yêu thương ai đó là nguy hiểm vì bạn sẽ mất họ. Nếu nỗi đau ấy gây ảnh hưởng quá lớn lên cuộc sống của bạn, tâm trí vô thức có thể sẽ “giữ” ký ức đó và cả niềm tin đó - và bạn sẽ không còn bất kỳ nhận thức có ý thức nào về trải nghiệm ban đầu. Lúc trưởng thành, bạn chỉ quan sát thấy rằng hễ bạn bắt đầu thân mật và gần gũi với ai, bạn lại rút lui và kết thúc mối quan hệ. Bạn chỉ nhận thức được triệu chứng. Còn gốc rễ, chính là ký ức sang chấn kia, thì vẫn bị chôn sâu trong vô thức.

 

Theo cách này, vô thức chi phối suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Và trong trường hợp cực đoan, nó có thể tiếp quản cả những ký ức vốn đe dọa tâm trí có ý thức. Điều này đặc biệt đúng khi trẻ lớn lên với những người chăm sóc có hành vi gây hại. Sự bất hòa nhận thức khi phải sống chung với “kẻ gây tổn thương” lớn đến mức bạn không thể tiếp tục tồn tại trong bầu không khí sợ hãi như vậy. Vậy nên, bằng cách dồn nén ký ức về sự tương tác và lạm dụng đó, bạn duy trì được sự gắn kết với người lớn đang gây tổn thương cho mình - từ đó đảm bảo khả năng sinh tồn của chính bạn.

 

Vì tất cả những điều này, cơ chế dồn nén ký ức là một trong những lý do lớn khiến nhiều người không thấy hoặc không nhận ra sang chấn của mình.

 

#6. Rất nhiều sang chấn liên quan đến những gì không hiện diện, chứ không phải những gì đã xảy ra.

 

Khi nghĩ đến sang chấn, ta thường nghĩ đến các sự kiện tồi tệ. Ta hiếm khi nghĩ đến những điều đáng lẽ phải xảy ra nhưng đã không xảy ra. Ta hiếm khi nghĩ đến những nhu cầu không được đáp ứng - những sang chấn liên quan đến cái không được làm hơn là cái đã được làm.

 

Nhưng loại sang chấn liên quan đến “những gì không có” chiếm một phần rất lớn trong thế giới ngày nay. Tôi có thể nói rằng nó là nguyên nhân nền tảng đằng sau phần lớn những vấn đề của người trưởng thành hiện đại. Đó là sự thấu hiểu mà bạn không nhận được. Là sự bảo vệ mà bạn không có. Là sự hiện diện và gắn kết mà bạn không được trải nghiệm - để rồi bạn lớn lên trong cô độc. Là việc bạn không được trân trọng. Là những động lực xã hội rối loạn hoàn toàn vô hình đối với bạn khi còn nhỏ nhưng lại gây tổn thương nghiêm trọng.

 

Đây là lý do vì sao rất nhiều người không có bất kỳ ký ức nào “đủ tệ” để lý giải việc tại sao mình lại không ổn - và họ thậm chí còn tự kết luận rằng chắc họ bị bệnh tâm thần. Nếu một người chưa bao giờ trải nghiệm điều gì đó, họ không hề biết mình đang thiếu điều gì. Điều này đặc biệt đúng với thiếu thốn cảm xúc. Một người có thể có đầy đủ mọi thứ vật chất, thậm chí sinh ra trong gia đình giàu nhất thế giới, nhưng vẫn bị bỏ rơi, bị tước đoạt, bị tổn thương và bị hủy hoại về mặt cảm xúc.

 

Con người rất khó tưởng tượng rằng những thứ không có lại có thể là nguyên nhân sang chấn khổng lồ. Nhưng nó hoạt động giống y như trong thế giới vật chất: nếu bạn gieo một cây non mà thiếu ánh sáng, thiếu nước, và đất thì nghèo dinh dưỡng, cây sẽ yếu đi, biến dạng và cuối cùng chết đi - chỉ vì những thứ nó không có. Con người cũng vậy. Có rất nhiều yếu tố quyết định một người có thể phát triển hay không, vượt xa chuyện ăn uống, nơi ở hay vật chất. Và khi thiếu chúng, một người sẽ bị sang chấn và không thể phát triển - nhưng họ lại không nhìn thấy điều đó.

 

#7. Các cơ chế đối phó của con người che giấu nhu cầu chữa lành.

 

Điều này rất dễ thấy ở những cơ chế đối phó kinh điển. Ví dụ, nếu một người dùng phủ nhận để đối phó, họ sẽ vẫn đi lại và sinh hoạt khá bình thường, nhưng trong trạng thái phủ nhận. Và sự phủ nhận này sẽ che đậy thực tại về những gì đã xảy ra - cả khỏi chính tâm trí họ lẫn khỏi những người xung quanh. Hoặc ví dụ, một người dùng nghiện công việc để đối phó. Nếu người này sống trong một xã hội đề cao thành công sự nghiệp, họ có thể hoàn toàn nhấn chìm mình vào công việc - điều này sẽ dễ chịu hơn nhiều so với việc đối mặt với những cảm xúc họ đang cố trốn chạy. Và chẳng ai nhận ra sự rối loạn này. Ngược lại, họ sẽ khen ngợi người đó vì làm việc chăm chỉ.

 

Các cơ chế đối phó và những sự thích nghi, đặc biệt là những sự thích nghi liên quan đến tính cách, còn che giấu nhu cầu chữa lành tinh vi hơn nữa. Con người tạo ra những mô thức thích nghi về mặt tính cách để đối phó với sang chấn. Những thích nghi này được thiết kế để giúp họ cảm thấy an toàn hơn. Và vì vậy, chúng khiến người khác hiểu lầm rằng người ấy đang tốt lên. Con người nhầm lẫn điều này với sự chữa lành - trong khi thực tế, đó không phải chữa lành. Đúng hơn là họ nhầm lẫn rằng: “Tôi không cần chữa lành điều gì cả vì tôi ổn với chuyện đó rồi”, trong khi thật ra họ không hề ổn.

 

Ví dụ, hãy tưởng tượng sang chấn mà một bé gái trải qua là việc nữ tính của em bị cha mẹ chối bỏ vì họ muốn một bé trai. Em có thể đối phó bằng cách trở thành “tomboy”: mặc đồ con trai, chơi đồ chơi con trai, chơi thể thao, tỏ ra mạnh mẽ - nói chung là hành xử như hình ảnh một cậu bé trong trí tưởng tượng của em. Chúng ta không thể gọi đó là chữa lành. Chữa lành sẽ là khi nữ tính của em được đón nhận. Nhưng hành vi tomboy chỉ là một cơ chế đối phó mà em dùng để đối diện nỗi đau khi nữ tính bị từ chối.

 

Tuy nhiên, đối phó theo cách này lại khiến em có cảm giác mình đang tốt lên, ít đau hơn. Vì sao? Vì rất có thể em sẽ nhận được phản ứng tốt hơn từ cha mẹ khi cố trở thành cái mà họ mong muốn. Cô bé này cũng sẽ bắt đầu đồng nhất bản thân với hình ảnh tomboy đó. Chúng ta thường nhầm lẫn chính mình với cơ chế đối phó của mình và với các hành vi thích nghi của mình. Cô bé đó lớn lên có khả năng cao sẽ xem mình “nam tính hơn”. Và em sẽ không thấy lý do phải chữa lành, vì em nghĩ những gì mình đang thể hiện chỉ đơn giản là “con người thật” của em - trong khi con người thật ấy có thể khác xa hoàn toàn.

 

Cùng một cách thức đó, con người tin rằng các cơ chế đối phó của mình “đang có tác dụng” - ngay cả khi thực tế chúng không hề giúp ích. Ta không thấy cần phải thay đổi hay chữa lành những gì ta nghĩ là đang giúp mình.

 

Hãy nghĩ đến một cậu bé lớn lên trong xã hội đề cao tính độc lập và xem phụ thuộc là điều đáng xấu hổ. Để tránh hậu quả xã hội, cậu có thể trở nên cực kỳ siêu độc lập. Cậu sẽ nghĩ sự độc lập này là một điều tốt, và lớn lên trở thành người ca ngợi nó, thậm chí phán xét những người phụ thuộc. Cậu không thấy nhu cầu chữa lành sang chấn liên quan đến sự phụ thuộc, vì cậu tin sự siêu độc lập là đúng đắn - và xã hội cậu sống cũng nói như vậy, nên tất cả đều “khớp”. Không ai cảm thấy cần phải chữa lành điều gì họ tin là đúng, là tốt, và đặc biệt là điều mà họ nghĩ “đang hoạt động tốt”, dù thực tế không phải vậy.

 

#8. Con người (và cả xã hội) nhầm lẫn giữa “khỏe mạnh” và “hoạt động được”.

 

Hầu hết mọi người không thấy cần phải chữa lành nếu họ vẫn có thể “chức năng được”, ví dụ: duy trì công việc, giao tiếp xã hội bình thường, hoàn thành nhiệm vụ, duy trì tự chăm sóc bản thân…

 

Nhưng thực tế có rất nhiều rối loạn vẫn được xem là “bình thường”, và có vô số người vẫn “hoạt động được” nhưng lại bị sang chấn nặng nề và rất rất cần chữa lành. Chúng ta không thể - và không nên - dùng khả năng hoạt động như thước đo xem một người có ổn hay không. Chúng ta không bao giờ nên dùng khả năng làm việc, sinh hoạt hay giao tiếp để đánh giá: một người có khỏe mạnh tâm lý hay không, một người có cần chữa lành hay không.

 

Nhưng đáng tiếc, con người vẫn làm vậy. Và xã hội cũng vẫn làm vậy.

 

#9. Tôi không cần phải nói điều này, nhưng để tổng quát thì: con người nhìn chung cực kỳ thiếu nhận thức và thiếu tỉnh thức.

 

Hầu hết mọi người không dành đời mình cho con đường thức tỉnh, tự nhận thức, tìm kiếm sự thật và nhìn thẳng vào thực tại. Điều đó không phải ưu tiên của đa số.

 

Vì vậy, họ có xu hướng đóng kín. Họ không thật sự suy nghĩ sâu về mọi thứ. Họ không dừng lại để xem xét nguyên nhân – kết quả, chứ đừng nói đến những hệ quả lan tỏa. Họ bám chặt vào góc nhìn chủ quan đến mức không quan sát chính mình và thế giới một cách có ý thức. Họ ít khi đặt câu hỏi - và càng hiếm khi đặt câu hỏi sâu.

 

Nhiều người ưu tiên cảm thấy dễ chịu hơn là biết sự thật. Nhiều người không mở lòng với những suy nghĩ khác, những trải nghiệm khác, những cách sống khác - những điều vốn có khả năng đặt lại câu hỏi cho tất cả những gì họ xem là “bình thường”.

 

Ngay cả khi một người dấn thân vào con đường tỉnh thức và nhận thức, đó vẫn là một hành trình phát triển - một kỹ năng được mài giũa theo thời gian. Bất kỳ ai đang trên con đường này đều có thể nói với bạn rằng: có vô số điều họ mãi sau này mới nhận ra, dù họ đã dành nhiều năm cho sự tự nhận thức và thức tỉnh.

 

Nhưng khi một người không dành mình cho nhận thức, thì có rất nhiều rối loạn và đau đớn mà họ không hề thấy. Có quá nhiều điều họ hoàn toàn mù mờ. Và điều này bao gồm cả việc họ cần được chữa lành.

 

Đã đến lúc chúng ta giải trừ kỳ thị đối với việc chữa lành, nhất là khi tất cả con người đều cần nó - và nhất là khi những trải nghiệm không mong muốn, bao gồm sang chấn, chính là nền đất màu mỡ để ta mở rộng bản thân và vì thế, là một phần của đời sống mọi người.

 

Và hy vọng rằng bây giờ bạn đã hiểu vì sao hầu hết mọi người không biết rằng họ cần chữa lành - dù thật ra họ có cần.

Họ thật sự, thật sự cần.

 

Chúc bạn một tuần tốt lành.

 

 

 

 

Link gốc của bài viết

 

https://www.youtube.com/watch?v=CJGfEsBlMKU

 

https://tealswan.com/

 


 

 

 

Theo dõi trên Facebook

 

https://www.facebook.com/Go-With-The-Earth-110516891516479/

 

DANH SÁCH TẤT CẢ CÁC BÀI VIẾT CỦA TRANG

 

https://gowiththeearth.blogspot.com/2021/10/tat-ca-sach-co-tai-blogs.html


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.