PHẦN BỔ SUNG
(Thêm vào năm 1996 để tham khảo cho cả ba tập.)
Phụ Lục
Tập 1 của
sách Những cuộc đối thoại với Nostradamus (Conversations with
Nostradamus) đã được in lần đầu tiên vào năm 1989, và tập 2 được in sau
đó, năm 1990. Khi hai quyển sách được tái bản năm 1992, đáng ghi nhận
là vài lời tiên tri đã trở thành hiện thực rồi. Sau đó, người ta
quyết định sửa đổi lại hai quyển sách bằng cách thêm vào các cập
nhật về sự kiện; điều này đã tạo nên những bản đã chỉnh sửa bổ
sung. Tập 3 được in lần đầu tiên vào năm 1992. Quyển sách đã trở
thành một thực thể sống động và phát triển, đòi hỏi phải được cập
nhật mỗi lần tái bản. Gần như không thể cứ tiếp tục cập nhật các
quyển sách. Tôi nhận được những cú điện thoại và thư từ, từ những
độc giả của mình, nói rằng họ đang đọc các quyển sách và đồng
thời, xem các sự kiện đã được mô tả đang xảy ra trên truyền hình.
Thông tin là ở hiện tại, đối với thời gian của chúng tôi.
Đây là lần
tái bản thứ 4 của tập 1, vào năm 1996, và đã có rất nhiều thông tin
mới xuất hiện, đến nỗi mà người ta quyết định rằng sẽ thêm vào
phần Phụ Lục này, hơn là chỉnh sửa lại cả bộ ba tập. Tôi hy vọng
rằng nó sẽ không gây nhầm lẫn cho người chỉ đọc Tập 1 mà thôi, bởi
vì tôi sẽ nhắc đến những thông tin mới có liên quan đến cả ba tập.
Với sự bùng nổ của truyền thông Internet, nhiều độc giả của tôi đã
thu thập được nhiều chi tiết mà nếu tôi chỉ dựa vào nghiên cứu của
riêng mình thôi, thì hẳn đã không thể nào thực hiện được. Tôi biết ơn
sự giúp đỡ của họ và nhiều tạp chí, báo và bài viết đã được
chuyển đến cho tôi. Sự siêng năng của họ khiến công việc nghiên cứu
của tôi trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.
THẾ KỶ II-60
(Tập 1, trang 253) có vẻ như đã ứng nghiệm với cuộc bầu cử của Tổng
thống Bill Clinton vào năm 1992. Bài thơ bốn câu đã dự đoán rằng Hoa
Kỳ sẽ có một Tổng thống Dân chủ trong suốt thời đại loạn. Khi lời
giải thích này được đưa ra vào cuối những năm 1980, tôi nghĩ rằng
điều đó thật đáng nghi ngờ vì Tổng thống George Bush dường như đã cố
thủ vững chắc ở Washington. Nhưng trước sự ngạc nhiên của nhiều
người, Clinton đã đắc cử. Trong suốt cả nhiệm kỳ đầu tiên của ông
ấy, tôi đã chờ phần còn lại của lời tiên tri trở thành hiện thực –
rằng ông ấy sẽ dẫn dắt Hoa Kỳ vào một cuộc xung đột để kích thích
nền kinh tế. Trong một bài thơ bốn câu khác, Nostradamus đã nói rằng
năm 1995 sẽ là một bước ngoặt, một năm đưa ra quyết định. Ông ấy nói
rằng trong năm đó, thế giới sẽ quyết định xem liệu nó sẽ bắt đầu đi
theo con đường dẫn đến Chiến tranh Thế Giới thứ ba hay tiếp tục con
đường mà chúng ta đang đi hiện tại (con đường ít nguy hại nhất). Tôi
thấy phiền lòng rằng vào khoảng cuối năm 1995, Tổng thống Clinton đã
điều quân đội của chúng tôi tham gia cuộc xung đột ở Bosnia. Đây là
một ứng nghiệm nữa của bài thơ bốn câu và cũng đi ngược lại với
các cảnh báo khác của Nostradamus. Ông ấy đã cho chúng ta kịch bản
về những sự kiện dẫn đến Chiến tranh Thế giới thứ ba. Một trong những
điều này đó là chúng tôi sẽ tham chiến ở khu vực xám của châu u, sau một loạt các cuộc chiến tranh
nhỏ ở khu vực Trung Đông. Ông ấy gọi nó là khu vực “xám” vì ông ấy
nói rằng bạn sẽ không biết liệu bạn đang ở châu u hay châu Á nữa, và ông ấy đề cập đến
Macedonia, và Albania bởi vì ông ấy đã không biết tên của Yugoslavia ở
thời đại của ông ấy. Trong tập 3, ông ấy nói rằng chúng tôi không nên
tham gia vào vùng này, bởi vì nếu những khu vực này tách rời khỏi
nhau, nó sẽ khiến đất nước suy yếu và dễ bị thôn tính hơn. Từ những
lời tiên tri, tôi có ấn tượng rằng sự tham gia của chúng tôi vào khu
vực đó của thế giới sẽ leo thang và chúng tôi sẽ gặp khó khăn lớn
trong việc rút quân về.
Nostradamus đã
nhấn mạnh rằng chúng tôi phải ngăn chặn các vụ nổ vũ khí hạt nhân
dưới lòng đất (Tập 1). Người ta hy vọng rằng lời cảnh báo của ông
ấy là cần thiết khi Hoa Kỳ ngừng thử nghiệm. Lệnh cấm thử hạt nhân
tạm thời của quốc gia có hiệu lực vào năm 1992. Năm 1993, Tổng thống
Clinton đã cân nhắc đến việc tiếp tục lại thử nghiệm hạt nhân dưới
lòng đất ở Nevada, vì một số chuyên gia đã muốn tăng cường độ an
toàn và tin cậy của những vũ khí hiện có. Hoa Kỳ đã khôn ngoan
quyết định ngừng thử nghiệm, nhưng những nước khác (như Trung Quốc,
Triều Tiên, và Pháp) thì không được hợp tác cho lắm.
Mối đe dọa
bùng phát trở lại khi Pháp kiên quyết bắn tám vụ thử gần một hòn
đảo ở Thái Bình Dương trong suốt năm 1995 và đầu năm 1996. Cả thế
giới kinh hoàng và có nhiều phản đối, ngay cả ở Pháp. Các ý kiến
phản đối hoàn toàn bị phớt lờ khi Pháp tiến hành hết thử nghiệm
này đến thử nghiệm khác, khẳng định rằng sẽ không có tác hại nào
xảy ra cả. Tất nhiên là họ đã sai, và dần dần rõ ràng rằng
Nostradamus biết ông ấy đang cảnh báo điều gì khi nói rằng sóng xung kích
từ các vụ nổ sẽ dội qua các mảng kiến tạo của Trái Đất. Trong
vòng vài ngày sau mỗi đợt thử nghiệm, các trận động đất và núi
lửa phun trào nghiêm trọng đã xảy ra. Lẽ ra đối với bất kỳ ai thì
điều này hẳn cũng đã rất rõ ràng rằng đấy không phải là trùng hợp
ngẫu nhiên. Chúng có liên quan trực tiếp đến những vụ nổ. Trong vòng
hai ngày sau cuộc thử nghiệm vào tháng Mười năm 1995, một trận động
đất đã tấn công Nhật Bản, sau đó là Indonesia, sau đó một ngọn núi
lửa phun trào ở New Zealand. Tất cả những điều này xảy ra trong vòng
một ngày và dường như theo một kiểu hình tiến triển xung quanh vành
đai Thái Bình Dương. Sau một cuộc thử nghiệm khác, một trận động đất
ở Mexico và một vụ phun trào núi lửa ở Nicaragua đã xảy ra trong
cùng một ngày. Sau một cuộc thử nghiệm trong kỳ lễ Tạ Ơn vào tháng
11 năm 1995, một trận động đất ở Ai Cập đủ mạnh để tạo ra các vết
đứt gãy ở Chephren, kim tự tháp lớn thứ hai trong số ba kim tự tháp
lớn. Có vẻ Tổng thống Pháp miễn cưỡng nhận ra sự thật vào đầu năm
1996. Ông ấy đã gặp Tổng thống Clinton ở Washington và họ đã đồng ý
sẽ không tiến hành thêm cuộc thử nghiệm nào nữa. Pháp dừng lại sau
sáu trong số tám vụ nổ đã được đề xuất. Liệu họ đã dừng lại kịp
thời, hay là đã xảy ra những thiệt hại không thể khắc phục được?
Trong suốt mùa
hè năm 1996, Mỹ đang dẫn đầu sự đồng thuận ngày càng tăng trên toàn
cầu về một hiệp ước cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Nhưng họ đã
gặp vấn đề trong việc giành được sự hợp tác của hai cường quốc
khác: Trung Quốc và ́n Độ (nước có
tiềm năng hạt nhân nhưng chưa có kho vũ khí hạt nhân). ́n Độ thẳng thừng từ chối tham gia,
phàn nàn rằng hiệp ước ủng hộ năm cường quốc hạt nhân đã được công
bố: Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và Mỹ. Trung Quốc đang giúp đối thủ
của ́n Độ là Pakistan đạt được năng
lực hạt nhân và nhà máy tên lửa. Người ta tin rằng Pakistan sẽ có
những khả năng này trong vòng hai năm. Không có gì ngạc nhiên khi ́n Độ lo ngại điều này. Hiệp ước chỉ
cấm các vụ nổ thử vũ khí hạt nhân, khiến các quốc gia kém phát
triển hơn (như ́n Độ) khó phát
triển hạt nhân. Các cường quốc hạt nhân được phép tiếp tục tinh chế
vũ khí của chính họ bằng máy tính và các công nghệ khác. Hoa Kỳ
gần đây đã công bố kế hoạch về một siêu máy tính có khả năng mô
phỏng các vụ nổ hạt nhân. Hiệp ước, như nó đã được viết, sẽ
buộc ́n Độ từ bỏ một lựa chọn
phòng thủ quan trọng. ́n Độ muốn
các cường quốc hạt nhân cam kết loại bỏ kho vũ khí hạt nhân của họ
theo thời gian. Vào ngày 22 tháng Tám năm 1996, ́n Độ đã phủ quyết đề xuất cấm thử
nghiệm ở Geneva, Thụy Sĩ. Tuy nhiên, Mỹ và các quốc gia khác vẫn cam
kết về lệnh cấm thử nghiệm và số năm thử nghiệm mà họ đã thực
hiện. Bất chấp sự phản đối, khối Liên Hợp quốc đã hoàn toàn tán
thành hiệp ước toàn cầu vào tháng Chín năm 1996. Mỹ nói rằng Iran
chỉ còn vỏn vẹn 10 năm nữa để trở thành cường quốc hạt nhân. Sự hỗ
trợ của Nga đối với Iran trong việc phát triển các lò phản ứng hạt
nhân dân sự cuối cùng sẽ giúp Iran phát triển vũ khí hạt nhân.
Vào tháng Bảy
năm 1996, chỉ 11 giờ trước khi các nhà đàm phán quốc tế ngồi xuống
để thúc đẩy việc thông qua lệnh cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân toàn
cầu, Trung Quốc đã cho nổ thứ mà họ cho là vụ nổ thử nghiệm hạt
nhân cuối cùng, được cho là vụ thử nghiệm lần thứ 45 của Trung Quốc.
Trung Quốc phản đối hiệp ước vì muốn gây khó khăn hơn trong việc ra
lệnh kiểm tra, nếu một quốc gia được cho là đã tiến hành thử
nghiệm. Cũng trong mùa hè năm 1996, hai vụ tai nạn xảy ra tại một nhà
máy hạt nhân của Ukraine đã giết chết một công nhân và giải phóng
chất phóng xạ. Trong 6 tuần năm 1996, mỗi trong số năm nhà máy hạt
nhân của Ukraine đều gặp sự cố trong đó có phóng xạ bị rò rỉ hoặc
một lò phản ứng bị đóng lại. Các vụ tai nạn đã nhấn mạnh nỗi lo
sợ quốc tế về sự an toàn của các nhà máy hạt nhân của Ukraine do
Liên Xô xây dựng bằng tiền mặt. Các nhà máy hạt nhân của Ukraine
thiếu tiền mặt đến mức họ hầu như không thể mua được nhiên liệu.
Việc bảo trì và nâng cấp độ an toàn định kỳ bị hoãn. Ngay cả những
sự cố nhỏ ở nhà máy hạt nhân cũng là khá nhạy cảm về mặt chính
trị vì những nỗ lực chính thức của Liên Xô cách đây nhiều năm nhằm
che giấu vụ nổ lò phản ứng ở Chernobyl, thứ mà đã dẫn đến thảm
họa hạt nhân tồi tệ nhất của thế giới. Chính Thụy Điển đã nói với
thế giới về sự cố này.
Các quốc gia
Tây phương đã thúc ép Ukraine đóng cửa nhà máy Chernobyl. Hai lò phản
ứng mới sẽ được hoàn thành trong vòng hai năm để bù đắp cho việc
đóng cửa. Mỹ và các đồng minh thân thiết nhất của họ đã hứa hẹn
hơn 3 tỷ USD để hoàn thành các nhà máy và hợp lý hóa ngành năng
lượng của Ukraine. Nhưng các quan chức Ukraine đã phàn nàn rằng số
tiền được đưa ra quá chậm. Vào năm 1995, người ta đã thông báo rằng
nhà máy hạt nhân mới ở Nhật Bản sẽ được xây dựng trực tiếp trên
một đứt gãy động đất đang hoạt động (cũng như ở phía bắc San Diego).
Nhật Bản nói rằng họ đã nhận ra mối nguy hiểm, nhưng cho rằng không
có nơi nào khác để xây dựng nó.
Trong một bài
báo tháng Bảy năm 1996, nhà báo điều tra, Dale Van Atta đã thêm một
khía cạnh khác vào cơn ác mộng hạt nhân đang tiếp diễn. Ông ta nói ở
một buổi thuyết giảng rằng mối đe dọa về một cuộc tấn công hạt nhân
trên đất Mỹ là có thật hơn bao giờ hết. Ông ta xem nó như một điều
không thể tránh khỏi và đã nói rằng nó có thể xảy ra trong vòng 10
năm tới, hoặc có thể là 5 năm nữa, với New York là mục tiêu khả thi.
Thông tin của ông ta dựa trên các nguồn tin tình báo Mỹ. Ông ta nói
rằng mối đe dọa số một vẫn là Nga, bởi vì hằng nghìn quả bomb hạt
nhất còn sót lại trên dất nước rộng lớn, nhiều trong số đó không
được đảm bảo an toàn. Ông ấy nói rằng Nga đã quá nghèo đến nỗi họ
sẵn sàng bán vũ khí và Uranium cao cấp để đảm bảo tiền tệ mạnh cho
tương lai.
Một lượng lớn
thông tin mới mà tôi đã nhận được liên quan đến sự khám phá ra hai sao
chổi mới: Hvakutake và Hale-Bopp. Trong nhiều bài thơ bốn câu,
Nostradamus đã đề cập đến các sao chổi trong nhiều phép ẩn dụ khác
nhau, và chúng có liên quan trực tiếp đến những sự kiện mà sẽ xảy
ra trong suốt Thời Kỳ Đại Loạn.
THẾ KỶ II-46
(Tập 1, trang 54): “Trên bầu trời sẽ nhìn thấy một đám cháy kéo theo
một vệt tia lửa. (Bài thơ nhắc đến nạn đói ở châu Phi).
THẾ KỶ II-62
(Tập 1, trang 124): khi sao chổi băng ngang qua… (Liên quan đến Thời Kỳ
Đại Loạn, đặc biét là đề cập đến Mabus Sadam Hussein.) Vào mùa Thu
1996, ông ấy đã ngẩng cao đầu trở lại, vậy nên lời tiên tri này vẫn
đang trong quá trình trở thành hiện thực.
THẾ KỶ IV-67
(Tập 1, trang 173): “… một sao băng dài.’ (Bài thơ bốn câu. Những rắc
rối lớn về mặt địa lý. Động đất và núi lửa ảnh hưởng thời tiết.
Một sao chổi rất sáng, dễ nhìn thấy, mà trước đây chưa từng được
biết đến.
THẾ KỶ II-15
(Tập 1, trang 195, trang 195): “Một ngôi sao có đuôi,” (Một sao chổi lớn
có thể được nhìn thấy rõ trên bầu trời của Bắc Bán Cầu. Những dấu
hiệu chỉ về sự ám sát của Giáo Hoàng hiện tại.)
THẾ KỶ II-96 (Tập 1, trang 223): Một ngọn
đuốc cháy sáng sẽ được nhìn thấy trên bầu trời đêm nay. (Những sự
kiện trước khi kẻ Chống – Chúa lên nắm toàn quyền.)
THẾ KỶ VI-6
(Tập 3, trang 163): “Một ngôi sao có đuôi.” (Những sự kiện có liên quan
đến sự kế vị của các giáo hoàng cuối cùng. Cũng nhắc đến sự trỗi
dậy của kẻ Chống – Chúa.)
Lúc ban đầu
viết sách, sao chổi chính được cho là sẽ xuất hiện trên bầu trời của
chúng ta trong thời gian này là Sao chổi Haley. Nhưng trong một số bài
thơ bốn câu, Nostradamus đã miêu tả một sao chổi mới mà những nhà khoa
học vẫn chưa biết gì về nó. Điều này chắc hẳn là phù hợp với
những tính chất của sao chổi Hyakutake và Hale-Bopp. Chúng chưa được
biết tới cho tới khi được phát hiện gần đây vào năm 1995 và 1996, và
tương ứng với các dấu hiệu thuộc chiêm tinh học đã được đề cập đến
trong những bài thơ bốn câu.
Thông tin của
Goro Adachi từ mạng Internet:
THẾ KỶ VI-97
(Tập 1, trang 251): “Tại 45 độ, bầu trời sẽ bùng cháy.”
Tại thời điểm
cận nhật (gần mặt trời nhất – tháng Tư năm 1997), khoảng cách góc
(độ giãn dài) của sao chổi HaleBopp trên bầu trời tính từ Mặt Trời
sẽ là khoảng 45 độ. Và nó sẽ nằm trên bầu trời phía Bắc ở một
góc nghiêng +45 độ (có nghĩa là sao chổi sẽ ở ngay trên vĩ tuyến địa
lý (45 độ)). Nó sẽ tiến đến gần Trái Đất nhất vào ngày 23 tháng 3
năm 1997. Một số các địa điểm nằm trên vĩ tuyến 45 độ: Lyon, Pháp,
Belgrade, Serbia (và toàn bộ khu vực Nam Tư cũ); Tuzla, Bosnia. Trên kinh
độ 45 độ: Baghdad, Iraq. Cuộc thử nghiệm hạt nhân của Pháp đã bắt đầu
bằng việc khám phá ra sao chổi Hale-Bopp. NATO / Hoa Kỳ đã tham gia
cuộc nội chiến Bosnian với tổng hành dinh Hoa Kỳ tại thành phố Tuzla.
Mối liên hệ với Iraq và Saddam Hussein là điều hiển nhiên.
Sao chổi
Hale-Bopp có quỹ đạo hơn 3000 năm. Quỹ đạo là một hình elip kéo giãn
rất dài. Nhận xét này về quỹ đạo hình elip nghe có vẻ giống như
Nostradamus đang đề cập đến một ngôi sao mới sẽ được phát hiện. Trong
tập 2 (trang 112 và 113), ông ấy đã tiết lộ rằng “Chúng ta sẽ khám
phá thêm hai hành tinh nữa, và chúng sẽ gây ra sự phấn kích tột độ.
Hai hành tinh là một phần của một hệ mặt trời khác mà có một ngôi
sao kép (hai ngôi sao, hoặc hai mặt trời). Có hai ngôi sao đã phát nổ,
và những hành tinh này đã bị ném vào trong quỹ đạo của chúng ta.
Hệ mặt trời của chúng ta và hệ mặt trời đó hiện đang chồng lên
nhau. Sao Thiên Vương, sao Hải Vương, sao Diêm Vương và hai hành tinh mới
này trước đây là một phần của hệ mặt trời khác kia. Chúng không nằm
trong một quỹ đạo chính xác mà bị hút vào mặt trời, giống như sao
Diêm Vương vậy. Chúng có một cung độ rộng hơn. Ngôi sao kép là một hệ
thống cũ hơn và nó đã phát nổ rồi tự bốc cháy.
Cũng trong
cuốn sách Jesus và người Essene (Jesus and the Essenes) của tôi, những
người Essene đã biết về một ngôi sao khác. Họ đã có một mô hình của
hệ mặt trời chuyển động vĩnh viễn. Mô hình chứa mười hành tinh. Và
cái mà chúng ta chưa biết có quỹ đạo hình elip kéo dài. Hai tài
liệu tham khảo riêng biệt này trong sách của tôi có lẽ đề cập đến
các hành tinh thực thế hơn là sao chổi, nhưng điều thú vị là trong
cả hai trường hợp, một quỹ đạo hình elip đều được đề cập đến. Goro
Adachi đã tìm được những thông tin bổ sung đáng kinh ngạc trong THỂ KỶ
IO-67 (Tập 1, trang 173) mà đã bổ sung đáng kể vào nội dung của quyển
sách này.
“Trong năm mà
Thổ tinh và Hỏa tinh đều bốc lửa như nhau, không khí rất khô hanh, một
sao băng dài. Từ những ngọn lửa ẩn giấu, một nơi lớn bùng cháy với
sức nóng, mưa nhỏ, gió nóng, chiến tranh và những cuộc đột kích.”
“Năm mà Thổ
tinh và Hỏa tinh đều bốc lửa như nhau.” Goro đã nghĩ rằng dòng đó có
thể có nghĩa là sao Thổ và sao Hỏa đều ở trong cùng một cung thuộc
hệ lửa. Ông ấy đã tìm ra rằng trong suốt khoảng thời gian từ 1996
tới 1998, sao Thổ sẽ ở vào cung Bạch Dương, và sao Hỏa sẽ ở vào cung
Bạch Dương hai lần, đưa ra hai khoảng thời gian: sao Hỏa ở Bạch Dương:
từ ngày 7 tháng Tư tới ngày 3 tháng Năm, 1996, và từ ngày 5 tháng Ba
tới ngày 15 tháng Tư, năm 1998. Trong bản ghi chép của đoạn ghi âm,
Brenda nói: “Khi sao Thổ ở vào cung lửa, và cùng thời điểm Mặt Trời
di chuyển đến cung lửa, sẽ có một sao chổi. Đây sẽ là một sao chổi
rất sáng, dễ nhìn thấy. Nhưng có lẽ trước đây nó chưa được biết
đến. Điều này trùng hợp với thời gian xảy ra những rối loạn về mặt
địa chất lớn.”
Điều thú vị
là Brenda không hề đề cập đến sao Hỏa mà thay vào đó, đề cập đến
vị trí của Mặt Trời. Đáng kinh ngạc là, việc đề cập đến Mặt Trời
(mà không được đề cập trong bài thơ) đã làm sáng tỏ về việc sao
chổi chính là Hale-Bopp. Hale-Bop đã được phát hiện ra vào ngày 23
tháng Bảy năm 1995, và Mặt Trời ở trong chòm sao Sư Tử (một cung lửa)
từ ngày 24 tháng Bảy tới ngày 24 tháng Tám, năm 1995. Điểm cận nhật
của Hale-Bopp là vào khoảng ngày 30 tháng Ba, năm 1997, khi mặt Trời ở
vào cung Bạch Dương (một cung lửa) từ ngày 2 tháng Ba tới ngày 21
tháng Tư năm 1997.
Khi Goro đưa
thông tin này lên mạng Internet, một độc giả đã nói với ông ấy rằng
“Sao Thổ và sao Hỏa bùng cháy” là một thuật ngữ chiêm tinh cổ, thực
sự có nghĩa là cháy hoặc “sát nhập vào với mặt trời.” Rõ ràng
thông tin này không thể đến từ Brenda bởi vì cô ấy không có kiến thức
về chiêm tinh học. Sự đề cập đến vị trí của Mặt Trời hẳn đã phải
trực tiếp đến từ Nostradamus. Chúng ta có thể thấy rằng thông tin
thực sự nhất quán với bài thơ bốn câu gốc bằng tiếng Pháp.
Sau đó, khi sao
chổi Hyakutake được phát hiện ra, Goro đã được hỏi rằng điều này sẽ
ảnh hưởng tới những lời tiên tri như thế nào. Ông ấy kết luận rằng
nó không bác bỏ mà gia tăng tính hợp lệ của thông tin. Những bài thơ
bốn câu đã đề cập đến sao chổi trong thời kỳ Đại Loạn có thể nhắc
đến cả hai điều này, bởi vì Nostradamus đã xem sao chổi là điềm báo
“của sự diệt vong”. Vào tháng Một năm 1996, Hyakutake đã được phát
hiện và đã đến rất gần Trái Đất vào ngày 25 tháng Ba năm 1996. Nó
rất sáng trên bầu trời trong suốt từ tháng Ba đến tháng Năm. Điểm
cận nhật (gần mặt trời nhất) là vào tháng Năm. Góc nghiêng của
Hyakutake là 45 độ vào ngày 6 tháng Tư (Bạch Dương, cung lửa), và độ
giãn dài của nó là 45 độ vào ngày 7 tháng Tư. Trùng hợp ngẫu nhiên ư? Goro đã nhận ra rằng cả hai sao
chổi (Hyakutake và Hale-Bopp) đã hoàn toàn trùng khớp với THẾ KỶ
IV-67, và ông có thể đã chính xác, về độ sâu sắc của những bài thơ
bốn câu của Nostradamus. Chúng thường đề cập đến nhiều hơn một sự
kiện, và ông ấy là một thiên tài tuyệt đối trong việc nhồi nhét một
lượng thông tin đáng kinh ngạc vào bốn dòng thơ mờ mịt. Goro cho rằng
tầm quan trọng của tất cả những xác nhận thuộc chiêm tinh và thiên
văn học này chính là việc nó đang cố gắng nói với chúng ta rằng:
Đã đến lúc! Năm 1996 là khởi đầu “chính thức” của sự ứng nghiệm của
rất nhiều lời tiên tri, mà đã được dự đoán cho Thời kỳ Đại
loạn.
Goro cũng đã
có những thông tin bổ sung thú vị liên quan đến THẾ KỶ V-92. “Sau khi
Tòa Thánh đã được tổ chức 17 năm, năm người sẽ thay đổi trong cùng
một khoảng thời gian. Sau đó, một người sẽ được bầu cử cùng lúc
đó, người mà sẽ không quá được lòng người La Mã.”
Trong quá
trình làm việc của tôi với Nostradamus, chúng tôi đã giải thích các
bài thơ bốn câu đã biết, nhưng có quá nhiều thứ không thể đưa vào
sách (mặc dù có ba tập.) Tôi được yêu cầu tập trung vào các sự kiện
xảy ra trong 20 năm tới (từ 1989). Trong quá trình loại bỏ, chỉ một
nửa trong số những bài giải nghĩa của tôi là được giữ lại trong
sách. Nhiều bài trong số những bài không được giữ lại có liên quan
đến quá khứ, và nhiều bài trùng lặp hoặc không thêm vào bất cứ
thông tin mới nào đối với tình huống mà tôi đã cố gắng nêu ra. Tôi
thường được hỏi liệu có quyển sách thứ tư nào chứa những bài thơ
bốn câu mà đã được loại bỏ hay không. Tôi không nghĩ vậy, bởi vì tôi
không cho là chúng chứa nhiều thông tin bổ sung. Tôi tin rằng thêm tập
thứ tư nữa thì sẽ thật điên rồ.
THẾ KỶ V-92
là một trong những bài không được thêm vào ở bản chỉnh sửa cuối
cùng. Tôi nhớ được bài thơ và sau khi nhìn thấy đề cập của Goro trên
mạng Internet, tôi đã tìm khắp cả trăm trang ghi chép để tìm ra nó. Nó
được giải nghĩa bởi Brenda vào tháng Bảy 1989, theo bản ghi âm. Phần
này của bản ghi chép là khá ngắn, vậy nên tôi thêm nó vào ở đây, để
nó có thể được so sánh với những kết luận của Goro Adachi. Thật thú
vị khi chú ý thấy sự giống nhau, bởi vì không có ai khác nhìn thấy
được bản giải nghĩa của chúng tôi cho đến giờ phút này.
B: Ông ấy nói
rằng bài thơ bốn câu này đang trong quá trình xảy ra. Nó đề cập đến
cuộc bầu cử của các giáo hoàng để đứng đầu Giáo Hội Công giáo La
mã. Ông ấy nói chúng ta đang trong quá trình tuyển chọn ra năm người
mà sẽ được bầu chọn trong cùng một khoảng thời gian – phần giữa của
bài thơ bốn câu.
D: Ý cô là
những người khác trong quá khứ sao?
B: Phải. Ông
ấy nói dòng thơ đầu tiên đề cập đến một giáo hoàng đã kế nhiệm
được 17 năm rồi, một khoảng thời gian khá dài. Rồi dòng kế tiếp nói
rằng cả năm người sẽ được bầu cử trong cùng một khoảng thời gian.
Ông ấy nói điều đó có nghĩa là trong 17 năm tới, sẽ có năm giáo
hoàng. Sau đó, một người sẽ được bầu chọn mà sẽ không được lòng
người La Mã. Ông ấy nói rằng điều đó ám chỉ giáo hoàng kế nhiệm
sau năm người đó. Hắn ta sẽ không được yêu mến (bởi người dân).
D: Đây là vị
giáo hoàng cuối cùng sao? (Phải.) Đó là một trong những lý do tại
sao hắn không được yêu thích, tôi đoán vậy. Hắn là vị giáo hoàng
cuối cùng của Giáo Hội Công Giáo.
Một trong
những lý do tôi đã không thêm bài thơ bốn câu này vào sách là bởi vì
tôi đã nghĩ rằng thông tin này đã được giải nghĩa trước đấy rồi.
Một lý do khác là bởi vì tôi dường như đã không thể tạo ra một thứ
tự số chính xác, trong nghiên cứu của tôi. Goro Adachi dường như đã có
khả năng làm được những điều mà tôi không thể, mặc dù ông ta chưa bao
giờ nhìn thấy bài giải nghĩa nào của chúng tôi.
Những kết quả
nghiên cứu từ mạng Internet của Goro. Giáo hoàng John Paul II đã nhậm
chức ở Tòa Thánh được 17 năm, tính đến ngày 1 tháng Mười, năm 1995.
Nếu bài thơ bốn câu ở trên thực sự đề cập đến JPII, lẽ ra ông ấy đã
không còn sống nữa rồi. Hình như nó không thể áp dụng cho ông ấy
được, nếu bạn cân nhắc đến dòng “năm vị giáo hoàng sẽ kế nhiệm,
theo thứ tự” bởi vì Nostradamus đã chỉ ra trong nhiều bài thơ rằng sẽ
chỉ còn có hai giáo hoàng, sau người hiện tại. Điều này cũng đã
được xác minh bằng những lời tiên tri từ Thánh Malachy (xem Tập 2).
Goro đã tìm ra rằng có một vị giáo hoàng đã giữ Tòa Thánh trong
chính xác 17 năm; Pius XI (tháng Hai 1922 tới tháng Hai 1939). Năm vị
giáo hoàng đã kế nhiệm sau ông ta là: Pius X-II, John II và Paul VI,
John-Paul I, và giáo hoàng hiện tại của chúng ta, John-Paul II.
Goro chỉ mắc
một lỗi nhỏ liên quan đến dòng cuối cùng, và điều này vẫn còn gây
tranh cãi, bởi vì bản dịch của ông ấy cũng khá phù hợp. Ông ấy
muốn thay đổi cách diễn đạt từ “Sau đó một người sẽ được bầu chọn
cùng một lúc…” thành “Sau đó một người sẽ được bầu chọn trong cùng
một thời hạn.” Theo từ điển tiếng Pháp của tôi, từ “thời gian”
(temps) còn có thể được dịch là “thời gian” (time) hay là “thời hạn”
(duration), vậy nên điều này cũng có lý đấy. Theo cách này, ý ông ta
là cả hai vị giáo hoàng (Pius XI và JP II) sẽ nhậm chức trong thời
hạn bằng nhau, và thời hạn này sẽ khác với thời hạn của những
giáo hoàng khác. “Người mà không được lòng người La Mã,” có ý nói
rằng Pius là vị giáo hoàng không phải là người Ý đầu tiên kể từ
thời Adrian VI ( 1522-1523).
Trong bài giải
nghĩa của chúng tôi, Nostradamus đã nhắc đến giáo hoàng cuối cùng,
giáo hoàng của kẻ Phản – Chúa, người mà sẽ không được đồng thuận
đối với nước Ý bởi vì những thiệt hại mà hắn ta đã gây ra đối với
Giáo hội Công giáo. Tôi nghĩ rằng sự giải nghĩa của Goro cũng có
thể chấp nhận được. Tôi đã làm việc với Nostradamus quá lâu đến nỗi
tôi đã biết được cách mà ông ấy nghĩ. Goro dường như là người đầu
tiên trao đổi thư từ với tôi mà có khả năng thâm nhập được vào trong
tâm trí của Nostradamus theo cùng một cách, và đánh giá cao khả năng
thiên tài của người đàn ông vĩ đại này.
Thông qua các
suy luận của mình, Goro đã đưa ra hai nơi chốn (Lyons, Pháp và Belgrade,
Nam Tư), là những địa điểm có thể ám sát giáo hoàng hiện tại. Tôi
đã nhận được thông tin từ một trong những độc giả của tôi về Bản đồ
thiên văn (astro – cartography). Đây là một quá trình thuộc chiêm tinh
phức tạp trong đó Tử Vi được đặt trên bản đồ thế giới, và nhiều sự
xác định bao gồm xác định nơi chết có thể được đưa ra. Bản đồ kết
quả trông rất giống biểu đồ nhịp sinh học. Độc giả đã chứng minh
cách một bản đồ thiên văn miêu tả chính xác việc Tổng Thống John F.
Kennedy đã chết ở Dallas và Martin Luther King, Jr. đã chết ở Memphis
như thế nào. Theo bản đồ thiên văn của giáo hoàng hiện tại, ông ấy
sẽ chết ở Belgrade. Thông tin này được đưa cho tôi vào năm 1991, và từ
thời gian đó, giáo hoàng đã không được cho phép đến Nam Tư. Có lẽ đây
là lý do tại sao vụ ám sát vẫn chưa xảy ra. Có lẽ lịch sử có thể
được thay đổi và lời tiên đoán này có thể tránh được, nếu ông ấy
tránh xa đất nước đó.
THẾ KỶ V-15
(Tập 3, trang 16T): “Giáo hoàng hiện tại di chuyển qua lại giữa nhiều
địa điểm khác nhau trên Thế Giới để viếng thăm các khu vực khác nhau
của Giáo hội Công giáo. Điều này đặt ông ấy vào hoàn cảnh nguy hiểm
bởi vì ông ấy không thể được bảo vệ tốt, nhưng họ không thể làm gì
về chuyện này cả, vì giáo hoàng cứ nhất định phải đi. Nostradamus
nói rằng ông ấy thấy ai đó sẽ ám át giáo hoàng ở một nơi mà đã
có nhiều cuộc náo loạn xã hội xảy ra trước đó.” Liệu điều này
cũng ám chỉ đến Belgrade chứ, bởi vì chưa có tình trạng bất ổn nào
ở Pháp có thể so sánh được cả?
Vào thời điểm
viết những cuốn sách này, tôi đã không thể hiểu được mục đích của
việc ám sát một nhà lãnh đạo tôn giáo là gì. Nhưng bây giờ vào
cuối những năm 1990, rõ ràng rằng nó phù hợp với chủ nghĩa khủng
bố. Nostradamus đã nói rằng sẽ có sự gia tăng khủng bố trong suốt
Thời kỳ Đại Loạn bởi vì một cách để chiến đấu trong một cuộc
chiến tranh chính là làm cho kẻ thù mất tinh thần. Logic sẽ là tấn
công vào những gì một quốc gia trân quý nhất – di sản văn hóa và tôn
giáo của họ. Những kẻ khủng bố cố gắng tạo ra nỗi sợ hãi bằng
cách chiến đấu từ trong bóng tối. Nostradamus cũng nói rằng trong
suốt Thời kỳ Đại loạn, các vụ ám sát những nhà lãnh đạo thế giới
sẽ gia tăng. Nó sẽ trở nên phổ biến đến nỗi mà không ai buồn nghĩ
gì đến nó nữa. Dự đoán đó chắc hẳn là đã trở thành hiện thực.
THẾ KỶ IV-68
tiếp tục: bài thơ này đề cập đến hạn hán. Nostradamus đã gọi nó là
“bài thơ bốn câu khô hạn” của mình. Vào năm 1996, Đại Bình Nguyên /
Vành đai Lúa mì (miền trung của Hoa Kỳ), nơi trồng phần lớn lúa mì
của đất nước, đã bị ảnh hưởng bởi một đợt hạn hán lớn. Có lẽ đây
là trận hạn hán tồi tệ nhất trong nửa thế kỷ qua. Vài chuyên gia đã
gọi điều kiện này là tồi tệ nhất kể từ sự kiện Thập niên Ba Mươi
Dơ Bẩn (Dust Bowl days of the 1930s). Nguồn cung cấp lúa mì giảm xuống
mức thấp nhất trong vòng nửa thế kỷ, và nguồn cung cấp ngô đạt mước
thấp nhất trong 20 năm. Trận hạn hán thậm chí còn ảnh hưởng đến
ngành chăn nuôi gia súc (bao gồm cả ngành nuôi bò sữa). Đồng cỏ quá
khô hạn để gia súc ăn cỏ và giá ngũ cốc cao khiến nhiều chủ trang
trại không đủ tiền mua thức ăn cho gia súc. Từ Kansas về phía Nam đến
Texas, một trong những đợt hạn hán tồi tệ nhất được ghi nhận đã đẩy
hằng nghìn nông dân trên Đại Bình Nguyên đến bờ vực của sự điêu tàn
về tài chính và thúc đẩy việc bán gia súc trong cơn túng quẫn ở
một số khu vực. Người ta nói rằng đây là lần đầu tiên nông dân đã
bán bò mang thai (gia súc giết mổ. Điều này được cho là sẽ ảnh
hưởng đến các sản phẩm sữa cũng như sản phẩm thịt.)
THẾ KỶ III-42
(Tập 3, trang 170) dường như cũng đề cập đến “bài thơ bốn câu khô
hạn.” “Điều này đại diện cho nạn đói hoành hành khắp thế giới. Tôi
thấy rất nhiều trang trại, vườn nho, và vườn cây ăn quả, nhưng mọi
thứ đều bị khô khốc đến trắng xác ra. Những cánh đồng dường như bị
đốt cháy bởi ánh nắng mặt trời.” Khi được hỏi khi nào điều này sẽ
xảy ra, Nostradamus đã trả lời, “Sẽ sớm thôi, trong cuộc đời bà.” Và
ông ấy đã cho biết điều đó sẽ xảy ra trước khi kẻ Chống – Chúa lên
nắm quyền, và hắn sẽ sử dụng điều này như một trong những công cụ
của mình.
Để biết thêm
thông tin chi tiết về những phát hiện của Goro Adachi, hãy liên hệ với
ông ấy qua Internet (Địa chỉ e-mail: <adachi@cris.com>). Đía chỉ
trang web của ông ấy:
http://www.concentric.
net/-adachi/prophecy/prophecy. Html
Tôi đã gặp
một số điều ngạc nhiên rất lạ lùng khi tôi bắt đầu giảng về tài
liệu về Nostradamus vào đầu những năm 1990s. Khi tôi viết hai quyển
sách đầu tiên, tôi đã không nghiên cứu gì về các khái niệm khoa học
phức tạp cả. Tôi như một tờ giấy trắng không có chút định kiến nào
cả. Tôi cũng được bảo không kiểm duyệt bất kỳ tài liệu nào, mà
phải trình bày nó chính xác như những gì nó được đưa cho tôi. Điều
này rất khó thực hiện bởi vì tính chất cực kỳ nghiêm trọng của
một vài tài liệu. Đã có nhiều trường hợp mà tôi đã muốn thay đổi hay
nói giảm nói tránh đi, vì sợ gặp rắc rối với chính quyền hoặc các
chuyên gia. Thay vào đó, tôi ngoan ngoãn tuân theo và trình bày tài
liệu theo cách nó đã được đưa cho tôi, qua đó, bản thân tôi chỉ đóng
vai trò là một người báo cáo khách quan mà thôi, mà không chịu trách
nhiệm gì về nội dung của nó cả.
Tại một vài
buổi giảng đầu tiên của tôi, những người trong nhóm khán giả bắt đầu
giáo dục tôi về sự giống nhau giữa một số tài liệu (của tôi) với
một số nguồn được viết khác. Điều này không làm tôi bối rối, mà
ngược lại khiến tôi cảm thấy kinh ngạc vì những linh ảnh của
Nostradamus thực sự có thể là được căn cứ trên thực tế, nếu những
người khác nhận ra hàm ý của nó. Hơn nữa, trong tôi là tràn ngập
những khả năng kinh khủng về việc những tiên đoán có thể gần ứng
nghiệm nếu những độc giả và khán thỉnh giả của tôi có thể nhận ra
và xác định những yếu tố kỳ lạ và chưa được biết đến đối với tôi.
Sau khi thảo
luận (Chương 19, Tập 1) về những vũ khí thử nghiệm tại một buổi
giảng, tôi đã được tiếp cận bởi một người đàn ông ở hành lang,
người mà nói với tôi rằng: “Thông tin của bà về những vũ khí bí
mật không phải là tiểu thuyết khoa học giả tưởng. Tôi biết, bởi vì
tôi đang nghiên cứu nó đây.” Lời tuyên bố này khiến tôi rùng mình.
Liệu Nostradamus có đúng không khi nói rằng phần lớn vũ khí đã được
phát minh ra và đang được chế tạo trong các phòng thí nghiệm bí mật?
Liệu ông ấy có đúng không khi ông ấy nói rằng phần lớn những gì ông
ấy đã nhìn thấy đã được hoàn thành và đang bị chính phủ che giấu?
Trong Đại Thế Chiến thứ II, thí nghiệm về bomb nguyên tử đã từng là
một bí mật được giữ kín nhất trên thế giới. Nếu một dự án về các
tài sản liên quan đến sự chết chóc như vậy có thể được giữ bí mật,
thì có bao nhiêu phạm trù tương lai khác, với những khả năng hủy diệt
lớn hơn nữa, cũng đang được nghiên cứu đây?
Trong Tập 1,
chúng ta đã thảo luận về máy tạo động đất, máy điều khiển thời
tiết, và những thí nghiệm thay đổi thời gian. Các độc giả và khán
thính giả của tôi đã hỏi rằng liệu tôi có biết về những công trình
nghiên cứu của Nikola Tesla hay không. Vào thời điểm đó, tôi biết ông
ấy là một nhà khoa học nổi tiếng đi trước thời đại vào những năm
1920 và 1930. Những phát minh kỳ diệu của ông ấy đã bị coi là vô
nghĩa và không được xúc tiến đến cùng. Người ta nói rằng Nga đã thể
hiện sự quan tâm đến các khái niệm của ông ấy hơn là Hoa Kỳ, và họ
đã tiếp tục các thí nghiệm của ông. (Xem THẾ KỶ 1-6, Tập 1, trang 241
và THẾ KỶ II-91, Tập 1, trang 127 để biết thêm về những bài thơ bốn
câu liên quan đến những phát miinh của Nga mà nghe có vẻ giống như là
công nghệ của Tesla.) Người ta cũng nói rằng khi Tesla qua đời vào năm
1943, FBI đã khám xét căn hộ của ông ta và các tài liệu nghiên cứu
quan trọng nhất của ông đã biến mất. Với ý tưởng này, có thể những
cỗ máy mà Nostradamus đã nhìn thấy là một phần mở rộng của khái
niệm ban đầu của Tesla. Tesla đã phát minh ra AC (dòng điện xoay chiều)
được sử dụng trong các hệ thống điện. Chính những ý tưởng cấp tiến
hơn của ông ấy đã gây phiền toái cho các nhà phát minh cùng thời với
ông. Ông tuyên bố đã khám phá ra cách cung cấp điện miễn phí cho toàn
thế giới mà không cần sử dụng dây điện. Tất nhiên, những kẻ trục
lợi hám tiền sẽ không bao giờ đồng ý tài trợ cho một phát minh như
vậy, và ý tưởng này đã bị chôn vùi. Tesla cũng đã mô phỏng một cỗ
máy tạo động đất sử dụng dao động. Tất cả những điều này nghe có
vẻ quá giống với những gì Nostradamus đã nhìn thấy đến nỗi không
thể nào chỉ là trùng hợp được.
Thông tin về dự
án HAARP ở Alaska bắt đầu được đưa ra ánh sáng vào năm 1996, dự án
dường như đã đưa các công nghệ ban đầu của Tesla lên đến đỉnh điểm và
là thảm họa nhất. Loại công nghệ vô hướng như Chiến tranh giữa các
vì Sao như vậy khởi nguồn ngay từ nền tảng của Tesla. Các bằng sáng
chế nói rằng các công trình nghiên cứu của Nikola Tesla vào những năm
đầu 1990 đã hình thành cơ sở cho nghiên cứu HAARP sau này.
HAARP: Chương
trình Nghiên cứu Hoạt động Cực Quang Cao Tần (High-frequency Active
Auroral Research Program). Hệ thống HAARP là một công cụ, một hệ thống
phát, và phát sóng tần số vô tuyến có sức mạnh to lớn. Khi hoàn
thành, nó được dự kiến sẽ tạo ra chùm tia ít nhất là 10 tỷ Watt,
và được kỳ vọng sẽ tạo ra được công suất 100 tỷ Watt về sau này.
Quân đội mô tả sự phấn khích của họ về khả năng “nắm giữ” quyền
kiểm soát tầng điện ly và uốn nó thành hình dạng phục vụ cho mục
đích của họ. Mục tiêu đầu tiên của họ là tia điện (electrojet) - một dòng
sông điện chảy hàng ngàn dặm qua bầu trời và xuống chỏm băng vùng cực. Thông
qua dự án này electrojet sẽ trở thành một ăng-ten rung nhân tạo để gửi bức xạ
điện từ trời xuống trên Trái đất. Chiếc máy cũng có thể cho phép chụp cắt lớp
xuyên thấu Trái đất (chụp “X-ray” trái đất) trên phần lớn bắc bán cầu. Khả
năng như vậy sẽ cho phép phát hiện và định vị chính xác địa điểm của các đường
hầm, cũng như các nơi trú ẩn dưới lòng đất khác
Sự kiểm soát
các điện tử và ion bị mắc kẹt bên trên trái đất có thể gây nhiễu hoặc gây gián
đoạn toàn bộ hệ thống dẫn đường, được cả những máy bay và tên lửa tinh vi nhất
sử dụng. Khả năng truyền sóng điện từ có tần số khác nhau trên những khu vực
rất rộng có thể gây nhiễu cho tất cả các phương tiện liên lạc, trên bộ, trên
biển và trên không cùng một lúc.
Các nhà bảo vệ
môi trường lo ngại về tác động của điều này đối với động vật và con người trong
khu vực thăm dò trái đất. Nó sẽ gây trở ngại cho các mô hình di cư của động vật
hoang dã, vì chúng dựa vào trường năng lượng không bị xáo trộn để tìm đường đi
của mình. Tần số được sử dụng trong thí nghiệm này giống với tần số mà bộ não
con người hoạt động. Sự tác động lên con người như một vũ khí phi sát thương vẫn
chưa thoát được sự chú ý, và đã được thử nghiệm. Công nghệ phi sát thương hiện
được gọi là “hệ thống vô hiệu hóa.” Là một vũ khí phi sát thương, nó có thể khiến
tâm trí quân địch trở nên mờ mịt hoặc đơn giản là khiến họ chìm vào giấc
ngủ.
Các chuyên gia
cho rằng một trong những công việc của Lục quân là định hình lại các giá trị của
Mỹ để họ chấp nhận vũ khí mới. Ý tưởng là tẩy não bằng cách được dạy để tin
tưởng, thay vì được cung cấp tất cả các dữ kiện để một người có thể suy nghĩ
về các vấn đề và đưa ra quyết định hợp lý. Nó có thể được được gọi một cách
tốt đẹp hơn là: “sự tuyên truyền-đối lập với-sự thuyết phục bằng lý
trí.”
Người phát ngôn
của H.AARP mô tả đây là nghiên cứu khoa học thuần túy về cực quang (Ánh sáng
Cực Bắc) và nghiên cứu về khả năng ảnh hưởng đến thông tin liên lạc của tầng
điện ly. Quân đội cho biết sẽ không có nhiều nhiễu loạn từ trường hơn những gì
xảy ra tự nhiên, ví dụ như các cơn bão mặt trời. Mặc dù nó được tài trợ bởi
Không quân và Hải quân Hoa Kỳ, họ nói rằng nó không phải là một hệ thống vũ
khí. Rằng HAARP có thể được sử dụng để liên lạc với tàu ngầm tốt hơn, sẽ thay
thế hệ thống radar trên đường chân trời và có thể quét sạch thông tin liên lạc
trên một khu vực cực kỳ rộng lớn. trong khi vẫn giữ cho các hệ thống thông tin
liên lạc do người kiểm soát được hoạt động bình thường. Thông qua công nghệ
chụp cắt lớp xuyên thấu trái đất của nó, nó có thể cung cấp một công cụ để
thăm dò địa vật lý nhằm tìm ra các mỏ dầu, khí và khoáng sản trên một khu vực địa
lý rộng lớn. Nó có thể được sử dụng để phát hiện máy bay tầm thấp và tên lửa
hành trình đang bay vào.
Bề ngoài nó
trông giống như một dự án nghiên cứu vô hại. Ở góc độ rộng hơn, nó giống với Dự
án Manhattan bí mật mà đã sản xuất ra bom nguyên tử. Vào thời điểm đó, trong
Đại Thế chiến thứ II, đây là bí mật được giữ kín nhất trong lịch sử. Quốc hội
thậm chí còn không biết họ đã sử dụng tiền tài trợ như thế nào, bởi vì tiền được
chuyển qua nhiều kênh khác nhau mà rất khó để theo dõi được. Việc này vẫn
đang diễn ra và được gọi là các dự án “ngân sách đen.” Tôi đã nghiên cứu rất
nhiều về sự phát triển của bomb nguyên tử. Điều này được đề cập chi tiết hơn
trong cuốn sách Một linh hồn nhớ về Hiroshima (A Soul Remembers Hiroshima)
của tôi. Vào những năm I940s, bí mật được giữ kín dễ dàng hơn vì tâm trí của
chúng tôi hướng và tập trung vào cuộc chiến, và chúng tôi chỉ được cho biết những
gì chúng tôi cần biết thông qua báo chí, đài phát thanh và phim thời sự. Giờ
đây, với máy tính, TV, radio và Internet, tri thức có thể được phân phối đi gần
như ngay lập tức. Không có gì ngạc nhiên khi chính phủ đang cố gắng điều chỉnh
Internet.
Tài trợ cho
chương trình HAARP đã tạm thời bị đóng băng vào năm 1995 bởi Thượng Viện Hoa
Kỳ. Tuy nhiên, dự án vẫn tiếp tục tiến triển, được tài trợ từ các nguồn ẩn
danh không rõ. Thông tin của tôi về thí nghiệm đáng gờm này chủ yếu đến từ cuốn
sách, Các Thiên Thần Không Chơi Trò HAARP Này (Angels Don’t Play This
HAARP), của Jeanne Manning và Dr. Nick Begich. Được xuất bản vào năm 1995 bởi
Earthpulse Press, PO Box 20I39.3, Anchorage, Alaska 99520. Nó được nghiên cứu
và ghi chép cực kỳ kỹ lưỡng với rất nhiều các chú thích chi tiết liên quan
đến tài liệu nguồn. Không có thông tin nào trong số này được đưa vào đây chỉ
để làm cho bất cứ ai sợ hãi. Đấy là quyền lợi của chúng ta, để được biết
các khả năng có thể được sử dụng để chống lại chúng ta. Nó không có nghĩa là
chúng sẽ diễn ra như vậy, nhưng biết được điều đó trước tiên là để đề
phòng.
HAARP là một
chuỗi ăng-ten nằm ở Gakona, Alaska, nơi có ít hơn hai người trên một dặm
vuông. Đó là một nơi hoàn hảo cho các thí nghiệm bí mật. Sóng điện từ VLF (tần
số rất thấp) và ELF (tần số cực thấp) được tạo ra và gửi đến mảng ăng-ten. ELF
có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực, tùy thuộc vào ý định của người vận
hành. Chúng có thể chữa lành hoặc phá hủy.
Dự án HAARP sẽ
có diện tích 33 mẫu Anh và cuối cùng họ dự định có 360 ăng-ten cao 72 feet. Nó
được mong đợi sẽ được hoàn thành và hoạt động đầy đủ vào năm 2002. Kế hoạch là
bắt đầu thử nghiệm vào đầu năm I997, bằng cách đốt nóng hoặc tạo ra những lỗ
hổng rộng 30 dặm, ngay phía trên thí nghiệm, giống như một lò vi sóng khổng lồ.
Một loạt lớn ăng ten sẽ chiếu một tỷ watt công suất điện từ ở tần số vô tuyến
lên, qua bầu khí quyển. Nó sẽ là “kẻ phá hoại” lớn nhất trên thế giới. Họ sẽ đục
một lỗ và đo kết quả, đục một lỗ khác, v.v. Họ kỳ vọng rằng sẽ mất khoảng ba
tháng để mỗi lỗ tự đóng lại, và dữ liệu sẽ cho họ biết cách tập trung của
chiếc gương ảo cuối cùng. HAARP sẽ đổ một lượng lớn năng lượng vào tầng bình
lưu và họ không hề biết điều gì sẽ xảy ra. Với các thí nghiệm trên quy mô này,
thiệt hại không thể sửa chữa được có thể được gây ra trong một thời gian ngắn.
Khi hoàn
thành, HAARP sẽ là “chiếc lò” lớn nhất thế giới, mạnh hơn bất kỳ
thứ gì đang tồn tại. Không ai biết được nó sẽ gây ra hiệu ứng gì,
một khi năng lượng được giải phóng vượt quá ngưỡng nhất định. HAARP
đã được gọi là Đạn pháo trên không (Skybuster) hoặc Siêu Lò (Super
Heater). Với hệ thống này, không cần vệ tinh để chiếu năng lượng được
tạo ra lên bầu trời. Các tín hiệu tần số cao được phát triển và
được thiết kế để ion hóa năng lượng trong tầng bình lưu, thứ mà chủ
yếu bao gồm khí Ni-tơ. Sự phát triển khéo léo này đã bỏ qua nhu cầu
dùng vệ tinh bằng cách sử dụng ăng-ten trên mặt đất. Ở vị trí rất
cao, hiệu ứng sẽ nhân lên nếu một mức công suất đủ cao được sử dụng.
Đó là một nguyên tắc rằng dữ liệu đầu vào nhỏ có thể tạo ra một
kết quả đầu ra lớn. Các hiệu ứng được tạo ra bằng cách cộng hưởng
thay vì giật điện trực tiếp.
Các cơ sở
nghiên cứu liên kết với HAARP được đặt tại Arecibo, Puerto Rico và
Fairbanks, Alaska. Các cơ sở khác được đặt ở Tromso, Na Uy; Moscow.
Nizhny Novgorod và Apatity ở Russia: Kharkov, Ukraine và Dushanbe,
Tadzhikistan. Không có hệ thống nào hiện đang tồn tại. Tuy nhiên, có
sự kiết hợp giữa khả năng tần số và khả năng lái chùm tia để thực
hiện các thí nghiệm được liên kế hoạch cho HAARP. Nhưng HAARP là một
phần của nỗ lực hợp tác toàn cầu bao gồm Liên Xô, Canada, Nhật Bản,
Greenland, Na Uy, Phần Lan, New Zealand và những nước khác. Các điểm
phát khác được đặt ở Greenland, Nam Thái Bình Dương, Nhật Bản và
châu u. Những cuộc thử nghiệm có
thể được chạy bằng tất cả các máy phát hoạt động cùng nhau; vì
vậy mà có thể tạo ra một hiệu ứng lớn hơn nhiều.
Các nhà khoa
học đã nghiên cứu sự nhạy cảm của các tế bào sống và hệ thần
kinh, và nói rằng không cần từ trường mạnh để tạo ra sự khác biệt.
Sự dao động của các trường rất yếu có thể ảnh hưởng đáng kể đến
mức độ sống của tế bào.
Tầng bình lưu
và tầng điện ly là những hàng rào bảo vệ xung quanh Trái Đất ngăn
các tia vũ trụ có hại tiếp cận bề mặt Trái Đất. Các tầng này đã
ở trong tình trạng mong manh và dễ vỡ rồi, một phần là do những thí
nghiệm trong quá khứ. Tiến sĩ Danial Winter nói rằng “Một số tính năng
nhất định của lưới từ trường giữ cho một bầu khí quyển nằm xung quanh một hành
tinh. Sao Hỏa mất bầu khí quyển và chúng ta cũng đang mất đi bầu khí quyển
của chúng ta. Cực quỹ đạo của Trái đất đang thực hiện các chuyến du hành
lệch ra khỏi độ nghiêng - với quỹ đạo Mặt trăng gây mất ổn định- và khả năng
giữ được bầu khí quyển và ôzôn đang suy yếu, đặc biệt là ở các cực. Hành tinh
này rất nhạy cảm với việc dội lại sức mạnh như vậy vào và ra khỏi bầu khí quyển.
HAARP có thể cắt một vết rách lớn trong lớp phân dạng (fractal) của từ trường
Alaska. Trái đất sẽ cảm nhận được rằng thay đổi này đang làm chủ, như một vết
thương rách ra mãi không lành.”
Các nhà khoa học
hàng đầu cho biết HAARP sẽ không đốt cháy các “lỗ hổng” trong tầng điện ly. Đó
là một cách nói giảm nguy hiểm về những gì mà chùm tia khổng lồ hằng tỷ
Watt của HAARP sẽ làm. Do sự quay theo trục của Trái đất, một vụ nổ kéo dài
hơn vài phút sẽ cắt xuyên qua tầng điện ly giống như một con dao vi sóng. Điều
này sẽ không tạo ra một “lỗ”, mà là một vết rách dài - một vết rạch.
Một trong những
lời tiên tri của Nostradamus chắc hẳn là nghe giống như dự án HAARP. Trong THẾ
KỶ 1-46 (Tập I, trang 244): "Câu nói này liên quan đến một sự kiện mà ban
đầu sẽ do bàn tay con người châm ngòi nhưng về cơ bản sẽ là một thảm họa tự
nhiên. Sẽ có một nhóm các bác sĩ (nhà khoa học) nghiên cứu về sức mạnh của các
trường năng lượng khác nhau của Trái đất. Họ sẽ cố gắng khai thác những sức mạnh
này và sử dụng chúng cho nhiều việc khác nhau bao gồm cả chiến tranh. Vào thời
điểm họ cuối cùng cũng bắt đầu thực hiện thí nghiệm trực tiếp về thế giới vật
chất. Họ sẽ vô tình phá vỡ một trong những trường của Trái đất, theo đó, một
chùm năng lượng sẽ bắn ra ngoài không gian và kéo một dòng thiên thạch về phía
Trái đất. Điều này sẽ xảy ra đâu đó trên Biển Bắc. Các thiên thạch sẽ bị hút
về phía Trái đất vì sự thay đổi các trường năng lượng xung quanh Trái đất
này. Và bởi vì chúng ở ngoài kia, chúng sẽ tiếp tục lao xuống cho đến khi
các nhà khoa học có thể sửa chữa thiệt hại. Việc chúng bị vỡ trong trường năng
lượng ném mọi thứ ra khỏi thế cân bằng. Vì thiết bị đo đạc của chúng vẫn
đang thử nghiệm nên chúng đã không được tinh chỉnh đủ để có thể đưa mọi thứ
trở lại trạng thái cân bằng vốn có. Vì
vậy, trong quá trình cố gắng sửa chữa những thiệt hại, có một trận động đất
xảy ra ngay sau khi áp lực được tích tụ. Bởi vì dự án này rất nguy hiểm,
nó sẽ là một dự án bí mật của chính phủ. Đối với thế giới nói chung, nó sẽ
trông có vẻ như là một hiện tượng tự nhiên. Nó sẽ được ghi lại theo cách
đó trong các văn bản lịch sử trong tương lai, bởi vì vai trò mà các nhà khoa
học đảm nhiệm là một bí mật tối quan trọng đối với các chính phủ có liên
quan, đến nỗi họ sẽ không để thông tin đó được tiết lộ.”
Trong bài thơ
bốn câu, nó nói rằng sự xáo trộn (xé rách) trong khí quyển xảy ra xung quanh
Biển Bắc. Đây có thể là nơi đặt một trong các máy phát. Hoặc nó có thể là nơi
nó dội xuống hướng Trái đất, bởi vì các chùm tia sẽ bị chệch và dội trở lại,
thêm vào đó, hiệu ứng xé rách có thể xảy ra trên một khu vực khác so với dự định.
Trong THẾ KỶ
I-22 (Tập 1, trang 166): Bài thơ bốn câu này mô tả một máy thao túng thời
tiết, tương tự như chương trình HAARP. “Nhân loại sẽ phát triển một số thiết
bị để điều chỉnh thời tiết và có thể điều khiển được việc thời tiết sẽ
như thế nào. Những cỗ máy chịu trách nhiệm tính toán này sẽ trở nên quá thông
minh đến nỗi điều đó không có lợi gì cho chúng cả. Kết quả là, thông
qua lỗi lập trình của chúng, thứ mà sẽ không được phát hiện cho đến khi quá
muộn, chúng sẽ vô tình làm cho thời tiết hoạt động sai, nên đã gây ra rất
nhiều thiệt hại do băng và mưa đá trái mùa. Những người vận hành thiết
bị này sẽ không nhận ra rằng nếu một người cố gắng buộc thời tiết phải làm một
việc trong một thời gian quá dài, mô hình tự nhiên cuối cùng sẽ vượt qua được
sự điều khiển của con người và có thể gây ra một số thời tiết trái mùa,
trong quá trình cố gắng đưa mọi thứ trở về trạng thái cân bằng. Kết quả
là, những chiếc máy tính này, trong khi cố gắng vượt qua các nguồn lực tự
nhiên đang cố gắng để đưa mọi thứ trở lại cân bằng, sẽ làm hỏng cầu chì,
có thể nói vậy, và nó trở nên hư hỏng đến mức không sử dụng được.”
Một lần nữa
trong THẾ KỶ X-70 (Tập I, trang I96): Một trong nhiều nghĩa mà bài thơ
bốn câu này đề cập đến là “một loại thiết bị nguyên tử, không chính xác là một
quả bomb, mà khi khởi động sẽ làm gì đó đối với khí hậu hành tinh. Nó sẽ dịch
chuyển một khối không khí làm đảo lộn sự cân bằng giữa nóng và lạnh, do đó hiệu
ứng nhà kính sẽ mất cân bằng và đạt đến cực điểm, và tác động nghiêm trọng đến
khí hậu, từ đó sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp.
Ngoài ra, THẾ
KỶ X-7I (Tập I, trang I98) cũng đề cập đến cùng một thiết bị: “Trái đất và
không khí đóng băng là một hiệu ứng khác của thiết bị nguyên tử, thứ mà sẽ
ném mọi thứ ra khỏi trạng thái cân bằng. Tất cả các cách giải quyết sẽ được
thử để bù đắp lại những gì đã xảy ra, nhưng họ sẽ không thành công, bất chấp
những lời lẽ hứa hẹn của chính phủ đối với người dân của họ, điều đó chỉ
là để cố gắng giữ cho dân khỏi hoảng loạn mà thôi.”
Các máy móc như
HAARP cũng có thể có tác động đến gió và ảnh hưởng đến khối lượng khí quyển như
những thứ liên quan đến El Nifo. El Nifo là một sự thay đổi theo chu kỳ của
các dòng hải lưu, thứ mà đã thay đổi các kiểu hình thời tiết trong
quá khứ. Trong THẾ KỶ IV-15 (Tập I, trang 235-237), người ta giải thích rằng
việc thao túng El Nifo có thể ảnh hưởng đến thời tiết trên thế giới.
Thuật ngữ “vụ
cháy bí mật” trong Thế kỷ IV-67 (Quyển 1, trang 173) có thể ám chỉ HAARP hoặc
một số vũ khí quân sự bí mật khác không? Một số loại thiết bị nguy hiểm bị
giấu kín khỏi khỏi công chúng?
Trái đất và các
dạng sống trên nó rung động và cộng hưởng trong sự hòa hợp. Năng lượng bức xạ
từ mặt trời và vật chất và dao động của Trái đất hỗ trợ sự sống. Các nguồn do
con người tạo ra đã làm xáo trộn sự hài hòa. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng hầu
hết các công nghệ gần đây đều nhằm mục đích bảo vệ con người khỏi thiên nhiên để
“chinh phục” và kiểm soát nó, đồng thời thiết kế các hệ thống vũ khí nguy hiểm
hơn bao giờ hết để tước bỏ mọi sự sống khỏi hành tinh một cách hiệu quả hơn.
Các tác giả của quyển Các Thiên Thần Không Chơi Trò HAARP Này (Angels
Don’t Play HAARP) nói rằng những người phát minh ra dự án HAARP đã tự giết
mình trong sự bất chấp hậu quả đối với toàn bộ hành tinh của chúng ta.
Sự xáo trộn tầng
điện ly có chủ ý có thể cộng hưởng với các vật chất bên trong Trái đất và
kích hoạt một trận động đất. Nostradamus đã mô tả một cỗ máy động đất với
các đặc tính tương tự trong Thế Kỷ ID-83 (Tập I, trang 238-240). Một bài báo
tháng 3 năm 1993 đã tiết lộ thực tế và sự tồn tại của một cỗ máy đáng kinh ngạc
như vậy. Một trích dẫn ngắn: ”Có sự hiện diện của các cơ sở quân sự chiến lược
trên lãnh thổ Georgia (Liên Xô), chẳng hạn như phòng thí nghiệm kiến tạo tại
Eshera gần thủ đô Abkhazian của Sukhumi. Tổng thống Georgia, Shevardnadze nói rằng
cơ sở này tham gia vào các thí nghiệm gây ra động đất theo cách trực tiếp,
để kiểm soát toàn bộ vùng Cận phía Đông.” Thông tin này được đưa ra ánh
sáng sau khi các khu vực này tách khỏi Liên Xô một thời gian dài. Họ sợ rằng
Liên Xô sẽ không để họ đi vì những vũ khí chiến lược này, và có thể cố gắng
giành lại những vùng đất này.
Một giả thiết
khác cho rằng người ta có thể thực hiện kỹ thuật di truyền với HAARP bằng cách
sử dụng tần số để cộng hưởng với DNA và do đó, mở và đóng nó. Việc tiêu diệt
các hạt (từ máy gia tốc hạt) giải phóng một mô hình điều khiển cách mà DNA sẽ
tự tập hợp lại. Lập trình di truyền cho thấy điều gì đó vượt xa hơn cả viễn cảnh
chiến tranh sinh học. Nó cũng bao gồm khả năng xáo trộn hoặc sắp xếp lại DNA của
chúng ta. Một nhà khoa học nói rằng nếu hệ thống này được chiếu vào toàn bộ dân
số, nó sẽ tiêu diệt loài người từ mặt di truyền.
Một khía cạnh
đáng sợ khác của HAARP là khả năng xáo trộn bộ não con người bằng cách can thiệp
vào hoạt động bình thường của nó. Bằng cách thay đổi các tần số này bằng sóng
ELF, tính cách hoặc tâm trạng của con người có thể bị thay đổi. Họ cũng có thể
được đưa vào một giấc ngủ sâu. Nó được gọi là thiết bị giám sát-não bộ lớn
nhất từng được hình thành. Khi được sử dụng với mục đích tốt, nó có thể
mang lại lợi ích to lớn cho nhân loại nếu được sử dụng để chữa lành các rối loạn
tâm thần và thần kinh, chữa nghiện ma túy và rượu, cùng những thứ khác. Nhưng
những người chỉ trích HAARP lo lắng về những tác động tiêu cực của việc thao
túng tâm trí mà những làn sóng này có thể gây ra đối với các nhóm lớn nhiều
người (thậm chí toàn bộ dân số), đặc biệt là vì thiết bị có thể được kích hoạt
từ xa và hầu như không thể phát hiện được. Quân đội có thể thay đổi suy nghĩ của
mọi người và đồng thời biết được họ nghĩ gì. Tất cả những điều này nghe giống
như truyện khoa học viễn tưởng, nhưng nó chắc chắn là có thể xảy ra và là sự
thật mang tính khoa học.
Nostradamus đã
nhìn thấy trước một vũ khí tương tự trong Thế Kỷ II-2 (Tập I, trang 167).
Trong bài thơ bốn câu này, Nostradamus mô tả một loại vũ khí mới mà sẽ được
phát triển. “Một loại sóng vô tuyến ở tần số và cường độ nhất định có thể gây
chết người. Nó có thể gây đau dữ dội ở các đầu dây thần kinh và phá hủy một số
phần nhất định của não.” Điều này nghe giống như các tần số HAARP thao
túng chức năng của não bộ.
Paul Schaefer
nói, “Trừ phi chúng ta muốn hành tinh của mình chết đi, chúng ta phải chấm dứt
việc sản xuất các hạt vật chất không ổn định. Ưu tiên hàng đầu để ngăn chặn
thảm họa này là đóng cửa tất cả các nhà máy điện hạt nhân và chấm dứt thử nghiệm
vũ khí nguyên tử, chiến tranh điện tử và Chiến tranh giữa các vì sao.” Đây là tất
cả những điều mà Nostradamus đã cảnh báo chúng ta.
Trong cuốn sách
Những Thiên Thần Không Chơi Trò HAARP Này, các nhà khoa học liên tục nói về
tinh thần của thế giới và cố gắng bóp méo nó hoặc thay đổi nó để có lợi cho
nhu cầu của họ. Điều này nghe có vẻ rất giống với dự đoán của Nostradamus rằng
kẻ Chống – Chúa sẽ cố gắng kiểm soát chính linh hồn của thế giới (Tập 2).
Liệu kẻ Chống – Chúa có giành được quyền kiểm soát cỗ máy này
không? Có một số nằm ở những khu vực mà hắn ta có thể tiếp cận (ví dụ như
Ukraine). Máy động đất được đề cập trong Tập 1, và kẻ Chống - Chúa được
tiên đoán là sẽ giành được quyền kiểm soát nó. Đây có phải là cùng một cỗ
máy không?
Thuật ngữ “mưa hạt
tích điện” đã được đề cập trong tài liệu về HAARP. Có thể nào cơn mưa điện tử của
các dòng hạt này là cơn mưa trắng mà Nostradamus đã nhìn thấy (Thế Kỷ III-8,
III-19, Tập 1, trang 254, 225). Hai bài thơ bốn câu này có đề cập đến mưa trắng
đục: “Mưa trắng sữa kéo dài và sấm sét là tác động của việc sử dụng vũ khí hạt
nhân trong cuộc chiến này. Sẽ có những vũ khí táo bạo khác được sử dụng, dựa
trên các khái niệm hiện đang được phát triển (1986), mà hiện tại bà và phương
tiện này (Brenda) không có bất kỳ khái niệm nào về chúng, và chúng sẽ gây ra
những hậu quả tàn khốc. Ông ấy sử dụng cơn mưa trắng sữa để đại diện cho
những tác động bất lợi mà những vũ khí hạt nhân táo bạo này sẽ gây ra đối với
thời tiết, bao gồm cả những thứ như mưa phóng xạ. Các loại vũ khí sẽ sử dụng kết
hợp những khía cạnh tồi tệ nhất của vũ khí hạt nhân và vũ khí laser, và với một
số vũ khí laser, khi nó bị bắn xuống trên người dân, sẽ giống như một chất màu
trắng đang rơi xuống.”
Đây không phải
là lần đầu tiên các nhà khoa học thử nghiệm mà không cần biết kết quả hành động
của mình. Khi họ phát triển bom nguyên tử, họ thực sự không biết những ảnh hưởng
của nó đối với bầu khí quyển khi nó phát nổ. Một giả thiết cho rằng nó có thể
đã đốt cháy tất cả các nguyên tử hydro trong một phản ứng dây chuyền, và có thể
đã hủy diệt thế giới. Trong Tập 2, Nostradamus nói rằng điều này thực sự đã xảy
ra trên một dòng thời gian khác. Đó là một tình huống cực kỳ nguy hiểm ở thời
điểm đó, vào những năm 1940, nhưng mối quan tâm chính của các nhà khoa học là
phát triển một quả bomb và khám phá ra rằng kết quả của một thí nghiệm đã đi
quá xa để dừng lại. Điều tương tự lại đang xảy ra một lần nữa với HAARP.
Những người làm thí nghiệm thừa nhận họ không biết kết quả có thể ra sao nếu
họ bơm các mức năng lượng tần số-vô tuyến chưa từng có lên tầng bình lưu, để
làm nóng các phần của tầng điện ly khó dò.
(Một phần thông
tin sau đây được lấy từ Tạp chí Hiệp hội Nhân văn Hoa Kỳ (American Legion),
tháng 10 năm 1995, bài báo có tựa đề Thánh George có thể Hy sinh (St. George
Is Expendable).)
Trong quá khứ,
chính phủ Hoa Kỳ đã tiêu diệt cuộc sống của hàng ngàn người Mỹ bằng các chương
trình thử nghiệm nguyên tử bí mật ở Tây Nam và Thái Bình Dương.
Bomb nguyên tử mới
chỉ được sử dụng một cách chính thức hai lần làm vũ khí chống lại con người.
Trường hợp đầu tiên là Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm I945 và Nagasaki vào
ngày 9 tháng 8 năm I945. Nhưng lịch sử không tính đến 250.000 người lính liên
quan đến cuộc thử nghiệm sau Đại Thế chiến thứ II, hay hàng chục nghìn dân thường
sống trong các cộng đồng nhỏ ở khu vực xung quanh của bãi thử Nevada, những người
đã tiếp xúc gần với bụi phóng xạ của gần hai thập kỷ thử nghiệm nguyên tử
lộ-thiên.
Quân đội cũng đã
thử nghiệm trên dân thường trong bệnh viện mà họ không hề hay biết. Dưới chiêu
bài của việc tiến hành các liệu pháp điều trị y tế, mọi người đã được tiếp
xúc với liều lượng bức xạ lớn để theo dõi tác động của nó đối với cơ thể của họ.
Một số nghiên cứu này chỉ mới được công bố (hoặc bị vạch trần) gần đây.
Một cách vô
tội, quân đội đã không hề nhận ra tác động của bức xạ ngoài trời đối với con
người bởi vì không có gì được biết vào thời điểm đó về tác động lâu dài chết
người của thử nghiệm đó. Nhưng với tư cách là các nhà khoa học, họ đã quyết tâm
tìm ra. Vì vậy, nhiều thí nghiệm của họ đã được thực hiện trong bí mật để tránh
sự phản đối kịch liệt của công chúng.
Vào năm 1946,
chính phủ liên bang chuyển toàn bộ dân số của đảo san hô Bikini ở Micronesia
(167 người dân bản xứ) đến một hòn đảo khác để quân đội có thể thực hiện các cuộc
thử nghiệm nguyên tử. Tổng cộng, 23 quả bomb đã được kích nổ ở Bikini, và thêm
43 quả ở Eniwetok gần đó. Kết quả là, sự ô nhiễm đã khiến đảo san hô mãi
mãi không thể sinh sống được nữa. Người bản xứ không bao giờ được phép quay
trở lại. Hơn 42,000 quân nhân và nhà khoa học đã tham gia, và họ không nhận thức
được mối nguy hiểm mà bản thân phải đối mặt. Sau đó, Nga đã bắt đầu thử nghiệm
nguyên tử của riêng họ trong 1949, làm gia tăng thêm lượng bụi phóng xạ.
Trong thời gian
này, quân đội quyết định bắt đầu thử nghiệm trên đất Mỹ vào năm 1951 và kiên
quyết nói với cư dân xung quanh rằng không có nguy hiểm. Trong khoảng thời gian
mười hai năm, 126 quả bomb nguyên tử đã phát nổ dữ dội phía trên bãi thử
Nevada, bất chấp những lời cảnh báo từ các nhà khoa học hàng đầu thế giới.
Vào tháng 3 năm 1953, trung bình có một cuộc thử nghiệm nổ bomb nguyên tử một
tuần trong vòng ba tháng. (Xem Tọa Độ Số Không Mỹ (American Ground Zero),
Bí Mật Chiến Tranh Hạt Nhân (The Secret Nuclear War) của Carole Gallagher
và Những Bí ̉n của Tháng Tám (The
Myths of August) của Stewart Udall.) Cư dân của các thị trấn lân cận không được
cảnh báo, hoặc được đảm bảo rằng không có nguy hiểm. Ngay từ đầu chương trình
bãi thử Nevada, những người lính đã được tuyển vào các vụ thử hạt nhân để
phục vụ với vai trò quan sát viên và người tham gia - hoặc như một số người
nói sau này, là những con lợn guinea thí nghiệm (guinea pigs).
Thị trấn nhỏ
tại St. Goerge, Utah là một nơi đã vô tình bị ảnh hưởng trong suốt
mười hai năm thử nghiệm nguyên tử trên mặt đất, bắt đầu từ 1951. Thị
trấn nằm ở 100 dặm về phía đông của bãi thử Nevada, và đã thường
nằm trên đường đi trực tiếp của các đám mây bụi (phóng xạ) phun lên
bầu trời bởi các vụ nổ. Trong một nghiên cứu được trình bày vào năm
1979, người ta phát hiện ra rằng tỷ lệ ung thư ở St. George cao hơn 143% so với
mức bình thường của tiểu bang. Chỉ riêng đối với bệnh bạch cầu ở trẻ em, tỷ lệ
tử vong ở miền nam Utah lớn hơn 250% so với tỷ lệ trung bình của tiểu bang, và
người ta cho rằng những con số này có thể là vẫn còn dè dặt.
Một bài kiểm tra
cụ thể cho thấy sự sơ suất đã xảy ra trong chương trình thử nghiệm. Vào ngày 1
tháng 3, năm 1954, một quả bom khí hydro 15 triệu tấn, tên mã là Bravo, đã
được kích nổ trên đảo Bikini ở Nam. Mạnh gấp bảy trăm năm mươi lần quả bom ném
xuống Hiroshima, vụ nổ đã làm bốc hơi phần lớn Nam và hai hòn đảo nhỏ hơn. Bụi
phóng xạ trút xuống 700,000 dặm vuông của Thái Bình Dương và rơi vào những
đảo cách xa đấy tận 300 dặm.
Năm 1958, Tiến
sĩ Edward Teller, được mệnh danh là “Cha đẻ của bomb H” đã đến Alaska với đề xuất
cho nổ một đoạn bờ biển khỏi bản đồ. Ông muốn chứng minh rằng các vụ nổ hạt
nhân có thể là một công cụ cho ngành kỹ sư địa chất (Dự án Chariot). Kế
hoạch của họ là cho nổ sáu quả bomb nguyên tử nhiệt hạch dưới lòng đất ở Cape
Thompson, Alaska, để đào một bến cảng. Lý luận rằng nếu nó thành công,
quá trình này có thể được sử dụng để tạo ra một kênh đào Panama hoặc kênh
đào Suez mới. Trong trường hợp này, họ gặp sự phản đối cật lực từ người
Eskimo sống trong vòng 30 dặm quanh Tọa độ Số Không (Ground Zero, nơi quả
bomb được kích nổ). Ba nhà khoa học dũng cảm lên tiếng phản đối thí nghiệm
đã bị mất việc và bị đưa vào danh sách đen. Nhưng ít nhất giữa sự phản đối của
người Eskimos và các nhà khoa học, thí nghiệm đã không xảy ra. Sau đó, các nhà
khoa học đã có thể chuyển các thí nghiệm của họ đến Nevada nơi dân chúng không
phản đối, và thiệt hại không được chính phủ tiết lộ cho đến nhiều thập kỷ sau.
Cũng trong năm
1958, cùng năm khi các vành đai bức xạ Van Allen được phát hiện, Hải quân Hoa Kỳ
đã cho nổ ba quả bom hạt nhân vào vành đai (Dự án Argus). Cố vấn Nhà Trắng đã
cho biết Bộ Quốc phòng đang nghiên cứu các cách điều khiển những thay đổi của
“trái đất và bầu trời, và do đó tác động đến thời tiết bằng cách sử dụng một
chùm tia điện tử để ion hóa hoặc khử ion khí quyển trên một khu vực nhất định.”
Các vành đai Van Allen là các khu mang hạt tích điện bị giữ lại trong từ
trường hơn 2000 dặm phía trên Trái Đất. Tầng điện ly kéo dài đến 620 dặm.
Một loạt các
thay đổi thời tiết bắt đầu vào năm I960 mà nhiều nhà khoa học cho rằng liên
quan đến thử nghiệm hạt nhân trong khí quyển. Bằng cách bắn các thiết bị này
trước khi họ có đủ thông tin để biết rằng nó sẽ tạo ra các vấn đề, họ đã thay
đổi các kiểu hình gió trong nhiều năm. Trong năm 1961-62, Liên Xô và Hoa Kỳ
đã cho nổ nhiều chất nổ vào bầu khí quyển. Ba trăm triệu tấn thiết bị hạt
nhân đã làm suy giảm tầng ôzôn khoảng 4%. Đây là khởi đầu của sự suy kiệt. Các
vụ phóng tàu vũ trụ sau đó cũng ảnh hưởng đến tầng ôzôn và tầng điện ly. Các
nhà nghiên cứu khí hậu không thể nhìn thấy trước được rằng hạn hán, lũ lụt
và nhiệt độ bất thường sẽ tiếp tục kéo dài xa hơn thập kỷ đó. Trong thời gian
đó, các chính phủ quốc gia đã có thể điều khiển thời tiết cho những mục đích
quân sự rồi, và điều này đã tiếp tục tiếp diễn trong những năm 1990.
Trong suốt
cuộc Chiến tranh Việt Nam, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã sử dụng các phương pháp
tạo mưa, thao túng sấm sét và bão trong Dự án Skyfire và Dự án Stormfury.
Quân đội đã nghiên cứu cả tia laser và hóa chất có thể phá hủy tầng ôzôn đối với
kẻ thù. Họ đã tìm cách gây ra động đất, cũng như phát hiện chúng, trong Dự
án Prime Argus. Như Nostradamus đã nói, nhiều việc được thực hiện trong thời kỳ
chiến tranh mà không bao giờ được phép thực hiện trong thời bình vì nó sẽ khiến
người dân kinh hoàng.
Vào năm 1966,
nhà khoa học được cả thế giới công nhận là Gordon MacDonald đã mô tả
việc sử dụng chương trình điều khiển thời tiết, điều chỉnh khí hậu,
làm tan chảy hoặc gây bất ổn định cho băng ở vùng cực, kỹ thuật làm
suy giảm tầng ôzôn, kỹ thuật động đất, kiểm soát sóng biển và điều khiển
sóng điện não bằng cách sử dụng các trường năng lượng của hành tinh. Ông cũng
nói rằng những loại vũ khí này sẽ được phát triển, và một khi sử dụng, thì nạn
nhân của chúng hầu như không thể phát hiện được.
(Nguồn: “Trừ phi
Hòa bình đến” (Unless Peace Comes), Chương: “Làm thế nào để tàn phá môi trường.”
(Howv to Wreck the Environment))
Vào những năm
1970s, Liên Xô muốn thay đổi khí hậu để làm cho nước Nga trở thành một nơi có
thể sinh sống thoải mái hơn. Các đề xuất bao gồm loại bỏ lớp băng ở Bắc Cực,
xây dựng đập ở eo biển Bering và định tuyến lại các con sông ở Siberia. Nhiều
quốc gia trên thế giới nghĩ rằng với sức mạnh nguyên tử, cuối cùng họ có thể
tái tạo lại các điều kiện sống của thế giới cho phù hợp với chính họ mà không cần
nghĩ đến hậu quả lâu dài. Sau các phiên điều trần của quốc hội vào cuối những
năm 1907, thử nghiệm lộ thiên đã bị dừng, nhưng thử nghiệm dưới lòng đất vẫn tiếp
tục.
Nghiên cứu của
Viện nghiên Cứu Nâng cao phi lợi nhuận đã tiết lộ (thông qua giám sát trái đất
bằng các thiết bị nhạy cảm) có mối liên hệ giữa các vụ thử hạt nhân dưới lòng đất
và các trận động đất. Nostradamus đã cảnh báo chúng ta về điều này trong Tập
1 và khẳng định việc thử hạt nhân phải được dừng lại vì chúng ta không nhận thức
được hậu quả gây ra trên toàn hành tinh. Các sóng xung kích dội lại khắp các mảng
kiến tạo, và các khu vực bị ảnh hưởng trên thế giới nằm cách xa các địa điểm
thử nghiệm ban đầu.
Hiệu ứng siêu đốt
nóng HAARP của sóng ELF trên gương, được tạo ra phía trên Trái đất, có thể gia
tăng tốc độ tan chảy của các tảng băng. Mực nước biển có thể dễ dàng tăng
thêm 150 feet, và sẽ tàn phá toàn bộ thế giới văn minh. Một phát minh như vậy
có thể dễ dàng gây ra những hậu quả mà Nostradamus đã nói trong Tập 2 và 3,
khi chúng tôi vẽ ra các bản đồ về số lượng đất đai ít ỏi mà sẽ còn lại sau một
thảm họa như vậy. Ngoài ra, một thiết bị như vậy có thể gây ra sự thay đổi đáng
kể trong mạch điện hoặc điện trường của hành tinh không? Liệu các nhà khoa học
có thể vô ý làm Trái đất bị chập mạch, gây ra một sự xáo trộn có thể làm
tan chảy các tảng băng và tạo ra viễn cảnh như trên bản đồ trong Tập 2 hay
không? Nhiều chuyên gia đã cho rằng sẽ cần phải có một sự đảo trục để tạo
ra sự tan chảy băng lớn như vậy, nhưng nếu thí nghiệm này thành công, HAARP có
thể tạo ra những tác động tàn phá tương tự.
Trước khi con
người cho nổ các vụ thử hạt nhân dưới lòng đất hoặc làm bất cứ điều gì khác xâm
phạm ồ ạt đến trạng thái cân bằng của các hệ thống trên Trái đất, thì chúng ta
đã ở trên một hành tinh bất ổn rồi. Đánh giá về sự gia tăng “tiếng ồn” địa từ
(nhiễu động trong từ trường trái đất) nghe thấy trên Trái đất, một số nhà khoa
học suy đoán rằng mặt trời có thể đang đến gần một thời điểm thay đổi. Cho dù mặt
trời có trải qua thời kỳ xảy ra những đợt bão ánh sáng nóng ngoạn mục
trong tương lai gần và ném nhiều hạt phân tử hơn nữa xuống Trái đất hay không,
thì thực tế là Trái đất đang bị ảnh hưởng ngay bây giờ. Thực tế là Trái đất
đang trở nên nóng hơn đã được báo cáo trên tờ New York Times vào năm 99r. Bài
báo nói rằng băng ở Bắc Cực đã giảm 2% chỉ trong khoảng thời gian 9 năm.
Gần đây người ta
đã phát hiện ra rằng có những ngọn núi lửa đang hoạt động bên dưới lớp băng phủ
của Nam Cực, và nhiệt độ của nước bên dưới lục địa bây giờ cũng giống như ở Địa
Trung Hải.
Thông tin này được
lấy từ một độc giả đã tìm thấy nó trên dịch vụ tương tác cá nhân Prodigy (một
dịch vụ internet), đề ngày 2 tháng 3 năm I993. Bài báo có tựa đề “Lửa trong bụng
của Nam Cực (Fire in Antarctic's Belly).”
Hơn 100 ngọn núi
lửa không hoạt động hoặc đang hoạt động được phát hiện tụ hội dưới đáy đại
dương gần Đảo Phục Sinh (Easter Island) ở Thái Bình Dương. Và bây giờ hoạt động
núi lửa được báo cáo - với những ngụ ý đáng lo ngại - ở Nam Cực. Các vết rỗ ở
dải băng Tây Nam Cực cho thấy núi lửa nằm sâu bên dưới. Các nhà khoa học đã kết
luận rằng một ngọn núi có đặc điểm khoáng chất của đá núi lửa cao hơn 6500 mét
so với nền đá của Nam Cực, bản thân nó bị chôn vùi dưới lớp băng dày khoảng
2000 km. Dữ liệu cho thấy đỉnh núi rất giống hình nón của núi Phú Sĩ của Nhật Bản.
Nó được cho là một ngọn núi lửa hoạt động gần đây. Nếu nó hoạt động trở lại, hệ
lụy là đáng lo ngại và có khả năng gây tai hại. Không có khả năng núi lửa có thể
phun trào và thổi bay tảng băng trên bầu trời Nam bán cầu. Mối quan tâm thực sự
là núi lửa này và những núi lửa khác được cho là đã tạo ra các vết lõm hình
tròn trong tảng băng sẽ khiến cho phần đế của tảng băng đủ tan chảy và
đủ trơn, làm cho tảng băng dễ dàng trượt về phía biển. Sự sụp đổ của tảng
băng Tây Nam Cực và sự di chuyển của nó vào đại dương xung quanh sẽ khiến mực
nước biển toàn cầu dâng cao.
Tôi cũng đã nhận
được một bức thư thông báo rằng các sông băng ở Thụy Điển đang tan chảy với tốc
độ chưa từng có. Có vẻ như cả hành tinh đang ấm dần lên. Chúng ta không cần
những thử nghiệm liều lĩnh trên thời tiết để tăng tốc điều đó. HAARP đã được
mô tả là một trong những hệ thống vũ khí nguy hiểm nhất kể từ khi vũ khí nguyên
tử nhiệt hạch phát triển. Có lẽ đây là lý do Nostradamus nhận xét về việc Hoa
Kỳ và Nga loại bỏ vũ khí hạt nhân. Ông ấy nói điều đó không quan trọng, họ đã
phát minh ra một thứ gì đó chết chóc hơn nhiều. Các cường quốc không cần vũ khí
hạt nhân nữa; chúng đã lỗi thời.
Vào năm 1995,
chúng ta đã có số lượng cơn bão kỷ lục. Nhiều đến nỗi chúng ta đã hết tên theo
thứ tự bảng chữ cái. Các nhà khoa học giải thích điều đó bằng cách nói rằng nước
biển ấm bất thường, và điều này góp phần vào sự phát triển của nhiều cơn bão
dữ dội hơn. Trận bão đầu tiên vào năm 1996 đã đi trước thời hạn. Mùa bão thường
bắt đầu vào cuối tháng Tám hoặc tháng Chín. Mùa bão này bắt đầu vào tháng Bảy.
(Xem thêm dự báo bão từ Thế Kỷ VII-116 (Tập 3, trang I42-143.)
Trong Tập 2
(Chương 14): “666, Bí mật của con số của quái vật (The Secret of the
Number of the Beast),” đề cập đến công nghệ sắp tới liên quan đến máy tính. Sự
phát triển phức tạp như vậy chưa từng có vào năm 1987 khi thông tin này được
đưa ra. Chúng ta vẫn đang thực hiện những bước đầu tiên còn non trẻ. Máy tính
chỉ mới bắt đầu trở nên phổ biến trên thị trường và vẫn chưa được đưa vào sử dụng
rộng rãi, điều mà đã phát triển trong những năm I990s. Tôi đã viết năm cuốn
sách đầu tiên của mình trên máy đánh chữ, vì vậy tôi đã rất phấn khích với
việc mua máy tính đầu tiên của tôi vào năm 1986. Tôi chỉ sử dụng nó vì khả
năng xử lý văn bản của nó. Ngay cả với tốc độ chậm như sên của nó, nó vẫn dễ
dàng hơn so với sử dụng máy đánh chữ - trừ khi nó quyết định chơi tôi và phá hủy
công việc cả một ngày chỉ bằng một lần nhấn phím. Trong những trường hợp như
vậy, tôi đã thấy hình ảnh những từ ngữ của mình trôi nổi ở đâu đấy trong
chốn u minh, không bao giờ có thể bắt lại được. Các đời máy sau này
đáng tin cậy hơn, nhưng tôi chưa bao giờ hình dung nó như thứ gì hơn là một
chiếc máy đánh chữ nâng cao. Vì vậy, những tiên đoán liên quan đến máy tính của
Nostradamus dường như giống tiểu thuyết khoa học viễn tưởng vào cuối
những năm 1980s.
Từ trang I32: “Kẻ
Chống – Chúa sẽ có hệ thống liên lạc tuyệt vời theo ý của hắn vì tôi thấy hắn
nói chuyện với máy tính và chính giọng nói của hắn đang kích hoạt máy tính.”
Trang 134:
“Thông qua mạng lưới liên lạc của mình, hắn ta sẽ có quyền truy cập vào các tệp
của tất cả mọi người: dữ liệu lúc chào đời, thông tin tài chính và những thứ
thuộc về tính chất này. Vì vậy, sẽ khó có thể chống lại hắn ta khi hắn kiểm
soát ngành ngân hàng thế giới và tín dụng kinh tế thế giới.” Tôi hỏi về ý
nghĩa của số 666 trong sách Khải Huyền trong Kinh Thánh. Ông ấy đang cho tôi
xem hết cột số này đến cột số khác, và nhiều số hơn nữa. Có vẻ như
thông tin thường được lưu trữ trong máy tính. Và số này, 666, có thể là số mã
cá nhân của kẻ Chống – Chúa mà hắn ta nhập vào các hệ thống thế giới khác
nhau, bởi vì hắn ta thiết lập một hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu và một
mạng lưới máy tính.
Vào thời điểm
đó, dường như một hệ thống máy tính không thể kết nối với toàn bộ thế giới.
Tôi đã nghĩ đó chắc chắn là một ý tưởng tương lai, và tôi đã tưởng rằng
nếu nó có xảy ra đi chăng nữa, thì nó cũng sẽ xảy ra trong một trăm năm
nữa. Tôi đã sai lầm làm sao. Làm thế nào mà bất cứ ai vào cuối I980s lại có thể
hình dung ra nổi ý tưởng về một mạng lưới toàn cầu trở thành hiện thực chỉ
sau mười năm cơ chứ. Và một thực tế chắc chắn là tất cả dữ liệu lúc chào
đời, hồ sơ tài chính và thông tin khác liên quan đến cuộc sống của chúng ta hiện
là một phần của một mạng máy tính rộng lớn. Nếu chúng ta không thể tin vào một
khả năng như vậy vào thời điểm cách đây mười năm ngắn ngủi thôi, thì liệu
còn những dự đoán nào khác đang trở thành hiện thực với một tốc độ nhanh không
tưởng?
Các dự đoán của
máy tính tiếp tục từ trang 133: “Hắn ta đã thiết lập một mạng lưới máy tính
mà sẽ khiến các quốc gia suy yếu. Hắn ta sẽ có thể phá hủy cơ sở kinh tế của
họ bằng cách tiếp cận được với thông tin (cần thiết). Nostradamus đang cho
tôi xem hình ảnh một quả địa cầu với rất nhiều sợi chỉ xung quanh nó (mạng
lưới toàn cầu (World Wide Web)). Ông ấy nói, ‘Hắn ta sẽ có chìa khóa
chính cho tất cả và sẽ hạ gục các quốc gia bằng cách cắt đứt liên lạc của họ
với phần còn lại của thế giới.’ Hắn thậm chí sẽ phát minh ra một chiếc máy
tính hoạt động từ cấp độ tâm thức não bộ. Một người có thể bật nó lên bằng
cách ra lệnh cho nó bằng tâm trí, thay vì nói chuyện với nó.” Máy tính kích
hoạt bằng giọng nói đang được phát triển trong I996 và có thể sớm có mặt trên
thị trường. Máy tính sử dụng tần số não của chúng ta hiện có thể hình dung được
và có thể là tiến bộ tiếp theo trong công nghệ máy tính.
Nostradamus đã
chỉ ra trong Tập 2 rằng kẻ Chống – Chúa sẽ được coi là một vị cứu tinh của
thế giới trong thời gian đầu. Hắn sẽ được coi là mang lại lợi ích cho nhân loại
với những phát minh kỳ diệu của mình. Nhưng ông ấy đã nhìn thấy mặt tối
trỗi dậy sau khi mạng lưới máy tính được thiết lập. “Các quốc gia trên thế
giới sẽ trải qua rất nhiều sự thịnh vượng bằng cách sử dụng hệ thống của
hắn. Các xem xét về tài chính sẽ được dành cho họ, nếu họ trở thành một
phần của hệ thống của hắn, và nếu họ không “chơi bóng”, họ sẽ bị loại ra và chịu
thiệt hại, như một kết quả tất yếu. Khi lớp vỏ của cái ác hoàn toàn chiếm lấy,
hắn ta sẽ bắt đầu tiêu diệt những người mà hắn cảm thấy là vô dụng đối với hệ
thống của mình. Khi hắn cải tổ, hắn sẽ cố gắng xóa sổ những người không có
lợi ích kinh tế cho kế hoạch thế giới của hắn. Hắn ta sẽ quét sạch nhiều
nhóm người. Cũng giống như Hitler đã cố gắng tiêu diệt người Do Thái, hắn sẽ
cố gắng tiêu diệt những người mà hắn cảm thấy không đủ sức sống trên hành tinh
này: người bệnh, người nghèo, người giàu có và những người không có giá trị
trong mắt hắn. Sử dụng mạng lưới của mình, hắn ta sẽ kích động hàng loạt hành
vi chết chóc. Sẽ không có lối thoát vì mọi thứ sẽ nằm trong hồ sơ.
“Ví dụ, nếu con
trai của một người bị chậm phát triển, hoặc nếu mẹ của một người quá già và
làm việc kém hiệu quả, hoặc nếu em gái của một người bị mất cân bằng về
tinh thần hoặc cảm xúc, tất cả họ sẽ bị tiêu diệt. Mọi thứ đều tê liệt vì hắn
ta kiểm soát mạng lưới liên lạc. Kết quả là, hắn biết điều gì đang diễn ra ở
khắp mọi nơi. Chúng ta đã trở thành một xã hội được máy tính hóa vào thời điểm
đó và mọi người sẽ có một con số nhận dạng nhất định, được lưu trữ
trong máy tính chính này. (Ở Mỹ, số an sinh xã hội của chúng tôi?) Con số này sẽ
là hình xăm không thể xóa nhòa trên bàn tay, cẳng tay hoặc trán, tùy thuộc vào
cấp độ trong hệ thống của hắn ta mà bà thuộc về. Những người ở cấp trên
của hệ thống của hắn sẽ được khắc chữ này trên trán để họ có thể bước vào bất
kỳ nơi nào. Số sẽ tự động được đọc, để cho họ vào. Đối với hầu hết chúng
ta, nó sẽ được khắc không thể xóa nhòa trên bàn tay của chúng ta. Điều này sẽ
được thực hiện bằng tia laze và sẽ không gây đau đớn. Nó sẽ không giống như một
vết bớt hay một khuyết tật mà sẽ là vô hình, trừ phi được quét bằng thiết
bị quang học. Bằng cách này, chúng ta sẽ có thể đi mua sắm, mua thực phẩm, và
vào một số địa điểm cần thiết cho công việc hoặc sự nghiệp của chúng ta.”
Khái niệm về việc
ai cũng có một con số này cũng được dự đoán trong sách Khải Huyền trong Kinh
Thánh (Khải huyền r3: rr-18l). Điều này nghe có vẻ viễn vông, nhưng nó cũng
đang trở thành hiện thực trong cuộc sống của chúng ta bây giờ. Trong chuyến du
hành khắp thế giới, tôi nhận ra các thử nghiệm theo hướng này đã bắt đầu
rồi. Tôi cũng nhận được thông tin chứng thực từ độc giả của mình, dưới dạng
các bài báo và tạp chí. Ở Mỹ, tất cả các số nhận dạng khác của chúng tôi (số
nhận dạng nghĩa vụ quân sự, bằng lái xe, v.v.) đang được thay thế bằng số an
sinh xã hội của chúng tôi, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu trữ hồ sơ bằng
cách chỉ có một số. Điều này cũng xảy ra ở các quốc gia khác. Một số đang thiết
lập thẻ để sử dụng mà sẽ có tất cả dữ liệu cá nhân được mã hóa trong một dải
điện toán (chẳng hạn như Thẻ Thông Minh (Smart cards) và thẻ y tế mới ở Mỹ).
Ở một số nước
châu u, một con chip máy tính được đặt
dưới da tay. Khi họ mua bất cứ thứ gì tại một cửa hàng, họ chỉ phải đưa tay qua
máy quét và tiền sẽ tự động được chuyển từ tài khoản ngân hàng của họ. Không có
trao đổi tiền mặt bằng tay và việc viết séc trở nên không cần thiết nữa và
bị loại bỏ. Ở một số quốc gia (như Úc là một), người ta đã đề xuất xác định
vĩnh viễn (bằng chip máy tính hoặc một số phương pháp khác) tất cả trẻ sơ sinh.
Một số đề xuất này đang vấp phải sự phản đối, nhưng các lập luận cho rằng chúng
ta đang trở thành một xã hội máy tính hóa toàn cầu và những tiến bộ này sẽ
khiến mọi thứ trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn. Họ sẽ làm cho việc nhận dạng
dễ xác minh hơn và sẽ loại bỏ tội phạm.
Singapore đã trở
thành một quốc gia được máy tính hóa hoàn toàn. Người ta nói rằng họ có thể biết
nơi ở của bất kỳ công dân nào bất cứ lúc nào. Bởi vì Singapore là một quốc gia
nhỏ (mặc dù dân cư đông đúc), nó sẽ là động vật thí nghiệm, và kết quả có
thể dễ dàng theo dõi và nghiên cứu. Họ cảm thấy rằng họ có thể thử nghiệm ở đó
trước khi áp dụng khái niệm này ở nơi khác. Đối với tôi, nghe có vẻ như kỷ
nguyên của “Người Anh Em Lớn” đang đến, và với một tốc độ mà vài năm trước,
chúng tôi đã nghĩ là không thể tưởng tượng tới nổi.
Trong một bài
thơ bốn câu khác, Nostradamus đề cập đến nhóm Cabal (Tập I, Chương 21) là
những người có một phần quan trọng trong mạng lưới máy tính này và thực sự
giúp ích cho kẻ Chống – Chúa vào ban đầu.
Trong THẾ KỶ
V-23 (Tập 1, trang 253-254): “Những người đàn ông này kiểm soát toàn bộ tình
hình thế giới ngay bây giờ, trong thời của bà. Chúng rất, rất mạnh mẽ.
Chúng ẩn mình rất tốt, nhưng chúng kiểm soát hầu hết nền kinh tế của cả thế
giới được biết đến và thế giới thứ ba. Chúng thao túng các cơ quan khác
nhau của chính phủ Hoa Kỳ và các quốc gia khác, bởi vì chúng có sức mạnh để
làm được như vậy. Chúng sẽ tạo ra vấn đề, không phải vì chúng muốn kiếm tiền
- chúng có tất cả số tiền mà chúng muốn. Ông ấy đang cho tôi xem hàng tấn
vàng. Chúng, nhóm Cabal, muốn có sức mạnh và quyền kiểm soát. Những người
đàn ông này là những nhà lãnh đạo của thế giới, nhưng bà không biết về chúng.
Bà thậm chí không biết tên chúng là gì. Các phương tiện truyền thông không
biết gì về chúng. Chúng được giấu kín, nhưng có ảnh hưởng rất lớn, đặc biệt
là đối với các tổng thống (lãnh đạo của các chính phủ khác nhau trên thế
giới). Thực tế là chúng đang cố gắng thao túng chính phủ của Liên Minh Xô
Viết để đưa một nhà lãnh đạo khác vào lưới. Chúng kiểm soát một phần phương
tiện truyền thông và có thể làm bất cứ điều gì chúng muốn. Quyền lực của
chúng là vô cùng to lớn. Ông ấy đang cho tôi xem một hình ảnh về quả địa cầu
với những đường trên đó mà ông ấy đã vẽ, và mọi thứ được buộc chặt lại với
nhau (mạng lưới toàn cầu?). Những người đàn ông này là những người làm
thế giới dịch chuyển và rung chuyển. Ông ấy cho tôi thấy rằng chúng đang
làm rung chuyển thế giới.”
Công nghệ Nano
(Nanotechnology)
CÔNG NGHỆ NANO:
một ngành khoa học mới cho phép các nhà nghiên cứu điều khiển các nguyên tử
riêng lẻ. Công nghệ Nano cũng dựa trên khái niệm về các robot nhỏ bé, có khả
năng tự tái tạo. Thuật ngữ Công nghệ Nano đã được sử dụng để mô tả một số ngành
khoa học liên quan đến các kích thước nhỏ hơn 1000 nanomet. Nguyên tắc cơ bản của
công nghệ nano là tiềm năng của nó trong việc sắp xếp lại các nguyên tử trong
một chất hoặc vật thể nhất định để tạo ra một chất hoặc vật thể mới. Ví dụ, sắp
xếp lại các nguyên tử trong chì, và bạn thực sự sẽ nhận được vàng. Điều này
nghe có vẻ giống như khoa học cổ đại về thuật giả kim, và Nostradamus nói rằng
thuật giả kim đã được thực hành tích cực vào thời của ông và là tiền thân của
hóa học hiện đại. Ông cũng nói rằng trong thời của Thiên tài Vĩ đại (Tập I,
Chương 24), những tuyên bố tuyệt vời về thuật giả kim sẽ trở thành hiện thực và
có thể thực hiện được.
Trong phần
giải nghĩa của chúng tôi, nhiều bài thơ bốn câu đã mô tả các khái niệm phức
tạp và tiên tiến đến nỗi không có từ nào dành cho chúng, cả vào thời
Nostradamus hay thời của chúng ta, vào cuối những năm 1980s. Bây giờ với nhiều
tiến bộ trong công nghệ máy tính cuối cùng đã có những từ và tên để mô tả
những điều đã không thể diễn tả được. Một trong những khái niệm này là
ngành khoa học về công nghệ Nano. Người ta nói rằng việc giảm kích thước chip
máy tính đã đạt đến giới hạn của nó. Cách duy nhất để sáng chế ra kích
thước nhỏ hơn là sử dụng cấp độ tế bào. ‘Nano’ có nghĩa là ‘rất mỏng’,
vì vậy, chúng ta đang xem xét một ngành khoa học có thể tạo ra máy móc hoặc
robot nhỏ đến mức chúng chỉ có thể được nhìn thấy ở cấp độ vi mô. Ngành khoa học
này đã mở ra một khả năng hoàn toàn mới. Những cỗ máy hoặc robot cực kỳ nhỏ bé
có thể được tiêm vào cơ thể con người và có thể di chuyển qua hệ thống máu với
nhiều mục đích khác nhau.
Các máy tính đã
xác minh rằng nó cũng có thể tái tạo hoặc sao chép các bộ phận của cơ thể người
bằng cách sao chép thông tin DNA trong tế bào của một người. Từ quan điểm y học,
đó sẽ là một bước đột phá đáng kinh ngạc khi có thể nhân bản và thay thế các
chi bị cụt và các cơ quan bị bệnh của cơ thể. Đây có thể là những gì
Nostradamus đề cập đến trong THẾ KỶ II-13 (Tập 1, trang 299) khi ông nói về việc
các bác sĩ và nhà khoa học thay thế hoặc tạo ra một cơ thể hoàn toàn mới khi cơ
thể cũ đã trở nên quá ốm yếu để tiếp tục. Ông ấy nhìn thấy cơ thể con người được
hoàn thiện đến mức nó sẽ không bao giờ chết. Tất nhiên, đây có thể là một phước
lành hoặc một lời nguyền. Trong nghiên cứu của tôi với người ngoài hành tinh,
đặc biệt là trong quyển Di sản từ các vì Sao (Legacy from tlhe Stars), tôi
phát hiện ra rằng họ sử dụng các phương pháp tương tự như thế này. Họ không cần
phải chết cho đến khi họ sẵn sàng. Tôi đã nghe nói về nhân bản, trong đó cơ thể
sẽ được nhân đôi bằng cách phát triển từ cấp độ tế bào giống như cách mà một đứa
trẻ được hình thành, ngoại trừ việc đây sẽ là một bản sao chính xác của bản gốc.
Trong khoa học công nghệ nano, việc nhân bản hẳn sẽ là quá chậm. Với sự trợ
giúp của máy tính, cơ thể có thể được tái tạo nhanh chóng khi mã DNA di truyền
của tế bào được đọc.
Điều này nghe có
vẻ như một phép màu y học to lớn, nhưng nếu biết về bản chất con người, rõ
ràng một số người sẽ khám phá ra cách sử dụng phương pháp này cho chiến tranh.
Trong trường hợp này, nó nghe giống như bài thơ bốn câu Thế Kỷ X-72, bài
thơ bốn câu nổi tiếng năm 1999 (Tập 1, trang 246). Nostradamus nói rằng ông
đã nhìn thấy sự phát triển của quân đội thông qua thuyết ưu sinh để tạo ra những
người đàn ông không có đạo đức, hầu như là những cỗ máy giết người. Phương pháp
công nghệ nano này thực sự có thể nhanh hơn phương pháp nhân bản hoặc thao tác
di truyền mà tôi nghĩ rằng ông ấy đang đề cập đến.
Cũng bằng
phương pháp này, sự phát triển của một máy tính hữu cơ, giống như thứ mà
Nostradamus đã nhìn thấy vị Thiên tài Vĩ đại sử dụng, là hoàn toàn có
thể. Ông ấy nói (THẾ KỶ IV-31, Tập 1, trang 288) nó sẽ “tự đổi mới giống như
các tế bào của cơ thể của các người. Một số bộ phận hữu cơ cuối cùng sẽ hao
mòn và già đi. Nhưng trong khi đó, nó sẽ tự tái tạo chính bản thân nó, vì vậy
sẽ có những bộ phận hữu cơ bong ra khỏi thiết bị này nhưng sẽ không mất đi bất
kỳ tri thức nào, vì nó sẽ liên tục tự đổi mới. Các ứng dụng của máy tính này
sẽ được áp dụng ngày càng rộng rãi hơn, đến nỗi mà nó sẽ thay đổi hoàn toàn
công nghệ của loài người.” Các nhà khoa học nói rằng các tế bào robot siêu nhỏ
có thể tự nhân đôi.
Các chuyên gia
cho biết cũng có thể nhân bản trí tuệ của một người và đặt nó vào một trong những
cỗ máy này. Tất cả những điều này sẽ có thể thực hiện được vì mọi thứ đều là
năng lượng, và các quá trình suy nghĩ có thể được lưu trữ và nhân bản thành
năng lượng. Trong bài thơ bốn câu Thế Kỷ IV-31 Nostradamus nói rằng vị
Thiên tài Vĩ đại hoàn thiện công nghệ mới này, phát minh ra máy tính hữu cơ,
và sau đó “như một hệ quả của sự phát triển này, anh ta đã hình dung ra cách cấy
ghép một vài trong số những khả năng thiên tài và kiến thức của mình vào
máy tính này. Vì vậy, nó sẽ vẫn ở đó để phục vụ nhân loại sau khi cơ thể của
anh ta đã già và chết đi. Anh ta phát triển nó đến điểm cao cấp nhất có thể để
chuyển giao lại sự thiên tài của anh ta, hay nói đúng hơn là nhân bản sự
thiên tài và tri thức của anh ta, vậy nên anh ta vẫn có nó, nhưng nó cũng nằm
trong chiếc máy tính hữu cơ này.” Phần còn lại của lời giải thích về bài thơ
bốn câu này mô tả lại quá trình mà đã được sử dụng.
Tất cả những
khái niệm này nghe giống như khoa học viễn tưởng vào cuối những năm 1980s khi
chúng tôi nhận được thông tin này. Nhưng 10 năm ngắn ngủi sau, nó không chỉ nằm
trong phạm vi có khả năng mà nó còn đang được các nhà khoa học trên khắp thế
giới tích cực nghiên cứu. Các khả năng của công nghệ nano đang tăng lên hàng
ngày và đang khiến người ta kinh ngạc. Có một số phòng thí nghiệm trên khắp thế
giới, trong đó có ba phòng thí nghiệm ở California, đang nghiên cứu vấn đề này,
vì vậy nó đang nhanh chóng trở thành tương lai và hiện thực của chúng ta.
(Theo tờ Thời
Đại New York (New York Times), ngày 2 tháng 4 năm 1995.- “Một mẩu vật chất
sống DNA có thể trở thành Máy tính Nhanh của tương lai.”) Các nhà lý luận hy
vọng sẽ khai thác được sức mạnh tính toán khổng lồ mà họ thấy trong bộ nhớ và
quá trình xử lý của bộ máy di truyền tự nhiên. Một đề xuất mới là cho một ngân
hàng bộ nhớ chứa hơn một pound phân tử DNA lơ lửng trong khoảng 1000 lít chất lỏng,
trong một bể chứa rộng khoảng một yard vuông. Một ngân hàng như vậy sẽ có dung
lượng lớn hơn tất cả các bộ nhớ của tất cả các máy tính từng được tạo ra.
Nguyên nhân là do các phản ứng hóa học xảy ra rất nhanh và song song, do đó nếu
các phân tử DNA được tổng hợp với cấu trúc hóa học biểu thị thông tin số, thì một
lượng lớn việc phân tích số sẽ được thực hiện khi phản ứng diễn ra.
Mặc dù lĩnh vực
máy tính sinh học vẫn còn sơ khai, nhưng các nhà khoa học máy tính đang ví những
bước đi đáng kinh ngạc đầu tiên ngày nay như là sự phát triển ban đầu của máy
tính điện tử. Các nhà khoa học đã bình luận: “Các cổng ngăn lũ đã bắt đầu mở
ra. Tôi chưa bao giờ thấy một lĩnh vực nào đi lên nhanh chóng như vậy. Một
cánh cửa dẫn đến những lĩnh vực mới đã được mở ra.” (*Một cánh cửa
dẫn đến một cửa hàng đồ chơi hoàn toàn mới đã được mở ra.)
Một hệ thống
tính toán DNA sẽ không giống với một máy tính thông thường, đặt ra câu hỏi máy
tính là gì. Các nhà khoa học đã nói: “Thật thú vị. Đó là một cách hoàn toàn mới
để nghĩ về máy tính. Tâm trí của chúng ta có định kiến là nghĩ về máy tính
dưới góc độ là máy tính do chúng ta tự chế tạo. Nhưng điều quan trọng là phải
giải phóng tâm trí của chúng ta để suy nghĩ về việc làm thế nào mà máy
tính có thể xảy ra một cách tự nhiên.” Điều đó có nghĩa là DNA có thể không phải
là loại máy tính mới duy nhất. “Có thể có rất nhiều máy tính ở ngoài kia, và
tôi nghi ngờ là có.”
Ghi chú. Điều
này dẫn đến khái niệm rằng toàn bộ cơ thể chúng ta là máy tính, theo cách chúng
hoạt động. Có thể nói rằng máy tính cho đến nay là sự phản ánh của chúng ta.
Tôi và toàn bộ cơ thể của chúng ta có thể được hình dung như một chiếc máy
tính. Nó cũng đi kèm với ý tưởng rằng chúng ta là các bộ phận trong cơ thể của
Chúa, và đang truyền thông tin (kinh nghiệm, cảm xúc, v.v.) cho Ngài, như được
đề xuất trong các cuốn sách khác của tôi. Điều này nghe cũng tương tự như giao
tiếp với UFO và người ngoài hành tinh, trong đó chúng ta đang truyền thông tin
đến các ngân hàng dữ liệu của họ. Có lẽ họ không thực sự cần cấy ghép, sau
tất cả. Có thể phần lớn thông tin được truyền đi bằng năng lượng của chúng
ta, đặc biệt nếu người ngoài hành tinh là một trong những sinh vật “tiên tiến”
hơn. Họ nói rằng họ có thể điều chỉnh về mức độ dao động cụ thể của chúng
ta, và dao động hoặc tần số của một người khác với dao động của những người
khác, và có thể nhận biết được một cách nhanh chóng đối với họ. Điều này
cũng đi kèm với ý tưởng về việc Nostradamus điều chỉnh về mức tần số của tôi
và cách ông ấy biết khi tôi đưa một người mới đến với ông ấy. Ông ấy đã không
nhận ra sự dao động của họ cho đến khi ông ấy nhận ra rằng tôi đang đứng sau họ.
Ông ấy có lẽ không biết mình đang làm như thế nào. Ông ấy chỉ nhạy cảm với những
dao động cá nhân hơn người bình thường mà thôi.
Ưu điểm của máy
tính DNA là chúng tiết kiệm năng lượng hơn một tỷ lần so với máy tính thông thường.
Và họ chỉ sử dụng một phần nghìn tỷ không gian để lưu trữ thông tin. Bằng cách
khai thác hiệu quả và tốc độ phi thường của các phản ứng sinh học, máy tính
phân tử có thể thực hiện hơn một nghìn tỷ hoạt động mỗi giây, khiến chúng nhanh
gấp một nghìn lần chiếc máy tính nhanh nhất (*hiện tại). Nhưng, quan trọng
hơn, các nhà khoa học máy tính mô tả máy tính DNA như là “mạng ngang hàng
khổng lồ”, nghĩa là với hàng tỷ hoặc hàng nghìn tỷ phân tử DNA cùng trải qua
các phản ứng hóa học, có thể thực hiện nhiều hoạt động cùng lúc, hơn tất cả các
máy tính trên thế giới làm việc cùng nhau có thể hoàn thành được. Một trong
những cách đơn giản nhất để sử dụng DNA có thể là dùng như một hệ thống bộ nhớ.
Tiến sĩ Baum nói, “Bạn có thể lưu trữ một lượng lớn thông tin trong một ống
nghiệm.” Bộ nhớ DNA có thể chứa nhiều từ hơn tất cả các bộ nhớ máy tính từng tạo
ra.
Sẽ không khó để
hình dung đây là một máy tính chạy tất cả các hệ thống của thế giới - cái được
gọi là “bộ não” của thế giới. Trong thời bình điều này thật tuyệt vời, nhưng
trong thời chiến thì điều đó thật kinh khủng. Ai sẽ kiểm soát việc sử dụng “bộ
não”, chính phủ nào? Và nó sẽ được đặt ở đâu để có thể được an toàn tránh
khỏi sự tiếp quản của các thế lực thù địch? Ở lục địa nào? Hay nó sẽ an toàn
hơn trên một trạm vũ trụ quay quanh Trái đất? Ai điều khiển “bộ não” thì điều
khiển thế giới. May mắn thay, Nostradamus đã nhìn thấy sự tiến bộ này xảy ra
sau Thời kỳ Đại Loạn khi chúng ta đã bước vào 1000 năm thời bình. Viễn
cảnh khác hẳn là quá khủng khiếp để tưởng tượng đến. Tôi tự hỏi liệu các
nhà khoa học có tính đến những khả năng này khi họ bước những “bước nhỏ” đầu
tiên của mình vào thế giới tương lai hay không.
Một nhà khoa học
đã cảnh báo rằng sẽ có những hạn chế. Ông ấy nói, “Theo thời gian, máy tính
DNA của bạn có thể bắt đầu tan rã. DNA bị hư hỏng khi nó chờ đợi trong các
dung dịch và những sự kiểm soát DNA thì dễ bị lỗi. Đây chính xác là câu hỏi
tôi đã hỏi Nostradamus. Tôi nghĩ nếu một thứ gì đó là hữu cơ, hay vật chất sống,
nó sẽ có các tế bào và các bộ phận sẽ chết. Ông chỉ ra rằng loại máy tính hữu
cơ này có thể tự sao chép và sửa chữa. Khái niệm này quá mới đối với các nhà
khoa học, họ vẫn chưa xem xét khả năng này, rằng các tế bào có thể tự nhân đôi
và do đó giữ cho máy tính hoạt động vô thời hạn, trong những hoàn cảnh thích hợp.
Không có gì ngạc nhiên khi Nostradamus không thể cho Brenda thấy chiếc máy này
trông như thế nào. Các khái niệm không tồn tại trong tâm trí của bất kỳ ai vào
năm 1986, và do đó không ai có thể diễn tả được.
Rõ ràng
Nostradamus thấy rằng vị Thiên tài Vĩ đại sẽ là nhân tố quyết định để gắn kết
tất cả các thành phần lại với nhau và tạo ra mô hình hoạt động được. Ít nhất
thì Nostradamus đã thấy người đàn ông vĩ đại này sử dụng những khái niệm này
để phục vụ cho những điều tốt đẹp. Tôi hy vọng rằng những ứng dụng tiêu
cực mà ông ấy đã nhìn thấy trước khi kết thúc Thời kỳ Đại loạn sẽ không xảy
ra, và chúng ta có thể tiến vào thời của Thiên tài Vĩ đại và thiên niên kỷ
mới một cách hòa bình và dễ dàng.
Tài Liệu Mới
kể từ khi Hoàn Thành
Bản Dịch
Nghĩa của những Bài Thơ Bốn Câu vào năm 1989.
Tại những
buổi diễn thuyết của tôi trên khắp thế giới, tôi thường được hỏi liệu tôi có
liên lạc với Nostradamus kể từ khi hoàn thành công trình nghiên cứu về những
bài thơ bốn câu vào năm 1989 hay không. Mọi người muốn biết liệu có bất kỳ dự
đoán mới nào không. Khi công việc hoàn thành, tôi chuyển sang các dự án khác và
viết những cuốn sách khác. Tôi coi Nostradamus là một người đang sống và tôi được
bảo rằng không nên làm phiền ông ấy bằng những mưu cầu tầm thường. Trong tập
2, chúng tôi được thông báo rằng các chuyến viếng thăm ông ấy của tôi mất nhiều
thời gian hơn tôi nghĩ. Đối với tôi, một buổi thôi miên kéo dài một hoặc hai giờ,
thực ra là một buổi dài từ bốn đến sáu giờ đối với Nostradamus, hoặc mất
gần như cả ngày của ông ấy. Khi chúng tôi du hành xuyên thời gian để liên
lạc với ông ấy, hình như là các định luật vật lý khác nhau đang hoạt động.
Không gian không chỉ bị ảnh hưởng mà khái niệm thời gian của chúng ta cũng
không còn giá trị nữa. Điều này cũng đã được chứng minh là đúng trong nghiên
cứu của tôi với người ngoài hành tinh. Họ liên tục nói rằng thời gian chỉ là
ảo (không thực). Nó được tạo ra bởi con người, nhưng trên thực tế nó không tồn
tại. Vì vậy, tôi không có buổi thôi miên nào để liên lạc với Nostradamus trừ
phi đó là vì một lý do quan trọng, chẳng hạn như để hỏi về các vấn đề thế giới
hiện tại.
Trong suốt những
năm qua kể từ lần đầu tiên tôi bắt đầu công việc của mình với Nostradamus, tôi
đã cố gắng bảo vệ danh tính và quyền riêng tư của các đối tượng của mình. Tôi
đã làm điều này theo yêu cầu của họ để cuộc sống của họ không bị gián đoạn bởi
tai tiếng và sự hoài nghi thường đi kèm với một dự án như thế này. Tôi đã được
tiếp cận bởi một số chương trình truyền hình muốn làm cho tài liệu trong sách
của tôi trở thành giật gân. Họ chủ yếu muốn cố gắng làm mất sự uy tín của
thông tin với lựa chọn hoài nghi của họ. Tôi không quan tâm đến loại chương
trình này vì họ có thể hủy hoại 17 năm làm việc của tôi một cách dễ dàng
hình dung được, chỉ trong một chương trình, và họ thậm chí sẽ không nhìn lại
mà tiếp tục đến với nạn nhân tiếp theo, người mà sẽ làm tăng xếp hạng của họ.
Vì vậy, tôi đã chọn lọc các chương trình mà mình đã xuất hiện. Tôi đã may mắn
được xuất hiện trên nhiều chương trình mà đã xử lý tài liệu này theo
cách thích hợp; Những Lời Tiên Tri Cổ I và II (Ancient Prophecies I and
II) của NBC, Bí ̉n của Thế Giới Cổ
(Mysteries of the Ancient World) của CBS, loạt Tiểu Sử của A&E,
Bí ̉n của Khoa Học Viễn Tưởng
(Sci-fi’s Mysteries), Phép thuật và Mầu nhiệm (Magic and Miracles), và
Showbiz của CNN. BBC ở London, Current Affair ở Australia, TVE ở Tây Ban Nha
và CNN ở Bulgaria cũng đã xem xét tài liệu này. Bất kỳ ai trong lĩnh vực nghiên
cứu tâm linh của chúng tôi xuất hiện trong một chương trình đều phải chịu rủi
ro vì cuối cùng bạn nằm trong tay của nhà sản xuất, đạo diễn và biên tập viên.
Thông tin có thể bị bóp méo để xuất hiện theo bất kỳ cách nào, một số cách có
thể không có lợi. Bạn không bao giờ biết được bạn sẽ được đối xử như thế nào
cho đến khi chương trình được phát sóng.
Vào tháng 6 năm
1994, tôi đồng ý tham gia một cuộc phỏng vấn của Encounters để quay một chương
trình về lời tiên tri được chiếu trên đài FOX. Họ yêu cầu quay phim trực
tuyến các buổi hồi quy trong đó các thân chủ sẽ liên lạc với Nostradamus.
Thông thường tôi sẽ từ chối, nhưng họ có vẻ thành thật trong lời hứa rằng các
thân chủ sẽ không bị lợi dụng, và sẽ được đối xử một cách đàng hoàng và tôn
trọng. Tôi đã hỏi vòng vòng tìm các tình nguyện viên, và cuối cùng Brenda và
Phil (Tập Ni và Người Trông Nom Trái Đất (Keepers of the Garden)) đã đồng ý
thực hiện chương trình, với lời hứa rằng họ sẽ không bị biến thành “những kẻ
diễn trò kỳ dị.”
Vào ngày 8 tháng
6, 1994, giám đốc Denny Gordon đã bay đến Fayetteville. Arkansas (thành phố gần
nhất), và có một đoàn nhân viên đài truyền hình đi từ Little Rock. Chúng tôi gặp
nhau tại khách sạn Hilton ở Favetteville. Tôi đã không có bất kỳ buổi thôi
miên nào với Phil hoặc Brenda trong vài năm, và họ chưa bao giờ gặp nhau trước
ngày này. Mỗi người trong số họ đến vào những thời điểm khác nhau để họ không
nghe thấy buổi thôi miên của nhau. Tôi đến trước và họ đã quay phim cuộc phỏng
vấn của tôi. Tổng cộng, công việc cả ngày kéo dài khoảng năm giờ. Không có gì lạ
khi quay vài giờ phim tài liệu và chỉ có 10 hoặc 15 phút xuất hiện trên một
chương trình. Họ thích có nhiều tài liệu để lựa chọn. Phil là người tiếp theo
đến và họ đã quay một cuộc phỏng vấn khi Denny hỏi anh ấy những câu hỏi về sự
liên lạc với Nostradamus mà chúng tôi đã thực hiện và anh ấy cảm thấy thế nào
về điều đó. Anh ấy trở nên xúc động nhiều lần vì anh ấy cảm thấy mối quan hệ mà
chúng tôi đã thiết lập giữa Nostradamus và chính anh ấy là rất riêng tư.
Sau cuộc phỏng vấn
của anh ấy, đoàn làm phim đã chuẩn bị phòng cho buổi thôi miên bằng cách mang
một chiếc ghế dài lên phòng. Họ nghĩ rằng sẽ dễ dàng hơn việc đặt camera
trong phòng ngủ của dãy nhà hai phòng này. Trong khi sắp xếp, Denny đưa tôi
vào phòng khác và đưa cho tôi một danh sách các câu hỏi mà cô ấy nghĩ là phù hợp.
Tôi đã bị bàng hoàng bởi sự đơn giản của chúng. Cô ấy muốn tôi hỏi
Nostradamus tại sao ông ấy lại quyết định đưa những lời tiên tri vào dạng mật
mã và những câu hỏi đơn giản khác. Tôi nói với cô ấy rằng tôi đã hỏi tất cả những
câu hỏi này khi chúng tôi mới bắt đầu làm việc. Tôi cảm thấy đó là một sự xúc
phạm khi hỏi lại những câu hỏi này lần nữa. Tôi đề nghị đặt câu hỏi về các
vấn đề thế giới hiện tại. Tôi không nghĩ chúng ta nên làm phiền người đàn ông
đó trừ khi chúng ta muốn biết điều gì đó quan trọng.
Tôi đã nói với
Denny về một số câu hỏi mà tôi nghĩ chúng tôi nên hỏi từng thân chủ. Cô ấy rất
ngạc nhiên. “Ồ. Ý bà là, vào ngay vấn đề.” Cô ấy nói, và tôi đồng ý. Cô ấy
nghĩ điều này sẽ làm cho một cuộc phỏng vấn thú vị hơn. Tôi đặc biệt quan tâm đến
tình hình hiện tại liên quan đến Triều Tiên và khả năng xảy ra đối đầu hạt
nhân. Ngoài ra, một sao chổi đã va vào sao Mộc và mọi người nghĩ rằng điều này
sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hành tinh của chúng ta, thậm chí có thể gây ra những hậu
quả tai hại. Đây là những loại thông tin tôi muốn thảo luận, và tôi sẽ hỏi
Brenda những câu hỏi tương tự khi cô ấy đến phỏng vấn vào buổi chiều.
Phil nằm vào
ghế dài với máy ảnh và đèn chiếu sáng xung quanh. Anh ấy lo lắng, vì chúng
tôi đã không làm việc trong vài năm và anh ấy lo lắng rằng từ khóa có thể
không còn hiệu quả. Tôi biết rằng trường hợp này sẽ không như thế. Khi
được cung cấp từ khóa, nó hoạt động nhanh như trước đây vậy. Điều này cũng
đúng với Brenda; nó hoạt động tuyệt vời, như thể không có bất kỳ sự gián
đoạn nào trong công việc thôi miên.
Trong suốt buổi
thôi miên, Denny đã sử dụng một chiếc máy ảnh cầm tay và di chuyển xung quanh
chiếc ghế dài để có được những góc quay khác nhau. Có lần cô còn trèo lên
ngăn tủ để quay phim và nhìn xuống anh ấy. Tất cả sự náo động xung quanh tôi đều
khiến tôi mất tập trung, nói giảm nhẹ nhất là thế. Mặc dù họ đã yên lặng,
nhưng những chuyển động vẫn gây mất tập trung. Nó không làm phiền Phil chút
nào, mặc dù đèn khá sáng. Khi bước vào trạng thái thôi miên sâu, anh ta trở nên
quên mất mọi thứ diễn ra xung quanh mình và tập trung hoàn toàn vào cuộc hành
trình xuyên thời gian và không gian để tìm Nostradamus.
Khi anh ta liên
lạc, thật thú vị là Nostradamus đã biết có điều gì đó bất thường trong buổi
thôi miên. Ông ấy biết rằng có những người khác trong phòng, và năng lượng của
họ đang quấy rầy ông ấy. Sau một thời gian tập trung, ông ấy có thể bỏ qua những
ảnh hưởng này và giao tiếp. Khi họ quay phim, tôi mở máy ghi âm của mình. Các
phần sau của bản ghi chép lại phần ghi âm sẽ được cô đọng lại để tập trung
vào các yếu tố quan trọng. Tôi giải thích với Nostradamus rằng buổi thôi miên
này khác biệt, vì chúng tôi đang sử dụng một phương pháp giúp đưa thông tin đến
với nhiều đối tượng hơn.
P: Ông ấy nói rằng
nỗ lực đối với những người trong phòng là không quá nhiều so với nỗ lực
đối với những người trên thế giới. Thông điệp đang bén rễ và phát triển. Nó
sẽ có một cuộc đời riêng, vươn đến xa hơn những đối tượng trong căn phòng
này. Ông ấy nói rằng ông ấy đã không gặp bà trong một thời gian, nhưng đã đoán
trước được sự trở lại của bà vì dường như bà không bao giờ hết thắc mắc cả.
D: (Tôi cười.)
Đúng vậy. Nhưng tôi đã tưởng rằng chúng ta đã kết thúc công việc rồi
nên tôi đã không đến trong một khoảng thời gian.
P: Ông ấy nói,
không phải vậy. Công việc của bà hầu như còn chưa bắt đầu, và rằng
bà sẽ sớm thấy mình trong vị trí của ông ấy, trong hơi thở của các
thẩm tra viên.
D: (Cười thầm)
Ông ấy có nghĩ vậy không?
Ông ấy nói rằng
ông ấy thấy điều này. Ông ấy không nghĩ vậy. Ông ấy nói rằng ông ấy rất vui vì
mình đang ở phía bên này của tấm gương. Tuy nhiên, ông ấy nói rằng ông ấy cảm
thấy thương hại phần nào cho những người nghĩ rằng sẽ đánh lừa được sự nỗ lực
này. Vì bản thân họ đang gọi lên cơn phẫn nộ của vận mệnh của hành tinh này.
Và như vậy sẽ sớm thấy rằng sự nhẫn tâm và giả định của họ sẽ được giải đáp
sớm thôi, bằng những sự kiện mà chính họ sẽ kêu gọi chúng đến. Ông ấy nói rằng
đây là một sự phản chiếu lại thời điểm mà ông ấy đang ở, và chỉ đơn giản là sự
lặp lại những gì mà ông ấy đã trải nghiệm. Đó là công việc của bà phản chiếu
công việc của ông ấy. Và vì vậy, trong sự chán ghét của bà, bà sẽ thấy,
nhiều yếu tố giống nhau đang vận hành trong khung thời gian của bà cũng
đang vận hành trong khung thời gian của ông ấy. Tuy nhiên, không nỗ lực
(phá hoại) nào thành công, bởi vì một lần nữa, công việc này thành
công chính là vận mệnh của hành tinh này. Ông ấy nói rằng những nỗ lực phá
hoại không thành công trong thời của ông ấy, và nó cũng sẽ không thành công
trong thời của bà.
Sau đó tôi đã
chuẩn bị để hỏi ông ấy các câu hỏi, và ông ấy vội vàng bảo tôi hãy
tiếp tục.
D: Gần đây có rất
nhiều lời bàn tán về đất nước Bắc Triều Tiên. Ông ấy có thể nhận thức được đất
nước đó ở đâu không?
P: Có. Ông ấy
đề cập đến nước này bằng biểu tượng một con rắn.
D: Nước Triều
Tiên hiện đang gây ra rất nhiều vấn đề bởi vì nhiều chính phủ trên
thế giới nghĩ rằng họ có sức mạnh hạt nhân và điều đó có thể là
một mối đe dọa. Ông ấy có thể nói gì về điều đó không?
P: Ông ấy nói
đầu của con rắn – và ở đây tôi đang đọc biểu tượng – bị cắt đứt.
Điều đó có nghĩa là, lãnh đạo của đất nước này sẽ bị loại bỏ,
và nỗ lực dường như sẽ thành công. Tuy nhiên, việc này sẽ tiếp tục
ở các khu vực khác bên ngoài, cộng tác với đất nước này. Ông ấy
đang nói rằng nhà lãnh đạo sẽ bị cách chức.
Tôi đã nghĩ rằng
điều đó có vẻ không khả thi vì Tổng thống đã tại vị mãi mãi. Ông ta đã rất
kiên định với tư cách là nhà lãnh đạo của Triều Tiên. Tôi không biết làm thế
nào điều đó có thể xảy ra. Sau đó, khi Phil tỉnh dậy, anh ta nói rằng anh ta
đã nhìn thấy nhà lãnh đạo đang chết, nhưng đó không phải là một cái chết tự
nhiên. Đó sẽ là một vụ ám sát có chủ ý để loại bỏ một nhà lãnh đạo - đang trở
thành mối đe dọa đối với kế hoạch tổng thể.
D: Liệu Triều
Tiên có sức mạnh hạt nhân không?
P: Ông ấy nói rằng
điều đó là tương đối, tùy thuộc vào cách bà muốn định nghĩa nó như thế nào.
Ông ấy nói rằng họ có khả năng sử dụng nó, tuy nhiên, theo cách mà bà
đang nói thì không. Chí ít thì chưa theo cách đó đâu. Ông ấy nói rằng
từ quan điểm của ông ấy, khả năng phóng hạt nhân là không có. Bản
thân các đầu đạn đang ở đó, tuy nhiên, tuy nhiên, tại thời điểm này,
không có bệ phóng.
D: Họ có phải là
mối đe dọa đối với Hoa Kỳ hay phần còn lại của thế giới không?
P: Ông ấy nói
không cần thiết phải hỏi một câu hỏi như vậy, bởi vì câu trả lời tự nó
đã quá rõ ràng rồi.
D: Ông ấy có thể
thấy khả năng xảy ra xung đột trong tình huống này không?
P: Ông ấy đang
cho thấy sự thẳng hàng của sao Kim và sao Hỏa. Và nói rằng đây là điểm mốc
khi quyết định tiêu hủy những vũ khí này được đưa ra. Sẽ có một cuộc tấn công
phủ đầu nhằm vào những cơ sở chứa những vũ khí này khi hai hành tinh thẳng
hàng. Có nghĩa là, đầu đạn, vật liệu và máy móc để tạo ra chúng.
D: Tôi không phải
là một nhà chiêm tinh. Ông nhìn thấy nó trong gương như thế nào?
P: Giữa chúng
là một đường thẳng (*thẳng hàng).
D: Vậy nếu
chúng ta đánh phủ đầu để phá hủy vũ khí, điều này sẽ dẫn đến nguy
hiểm, hay đó sẽ là kết thúc của vũ khí đó?
P: Ông ấy nói đó
chỉ là phần cuối của một chương nhỏ trong một bức tranh tổng thể lớn hơn nhiều.
Rằng có một sự sinh sôi nảy nở, đó là việc cắt đầu của một trong những con rắn
của thủy quái.
Câu hỏi thứ hai
của tôi liên quan đến Nam Tư, hay “khu vực xám” của Châu u như Nostradamus đã gọi. Ông ấy gọi nó là
“khu vực xám” vì bạn không biết mình đang ở châu u hay châu Á. Trong một số bài thơ bốn câu,
ông đề cập đến Macedonia và Albania, bởi vì ông không có tên cho Nam Tư vào thời
của mình. Tôi muốn biết liệu Hoa Kỳ có gặp vấn đề với khu vực đó vào năm 1994
hay không.
P: Sẽ có một trận
động đất chia cắt ranh giới. Ông ấy nói rằng rất khó để thay cách nhìn về
thế giới của ông ấy bằng cách nhìn của chúng ta. Ranh giới chính là cát
và gió. Tuy nhiên, để xác định chính xác khu vực, sẽ có một trận động đất sau
đó là một trận mưa đen ở khu vực đó vào cuối mùa hè, vào tháng Tám. Ông ấy
không thể xác định thời gian tốt hơn như thế được.
D: Nhưng liệu
Hoa Kỳ có tham gia vào một cuộc chiến tranh thực sự, một cuộc xung đột,
trong khu vực đó không?
P: Ông ấy nói rằng
điều đó đã xảy ra. Và tự hỏi làm thế nào mà bà không biết điều đó
được.
D. Ý ông là người
dân của chúng tôi đã thực sự chiến đấu ở những khu vực đó vào năm 1994?
P: Chính xác
là thế.
D.: Theo như
tất cả những gì chúng tôi biết, chúng tôi đã không tham gia tích cực.
P: Ông ấy nói rằng
không phải vậy. Rằng đã có sự lật đổ trong nhiều lĩnh vực kể từ khi ... Tôi
đang nhìn thấy bức ảnh của George Bush.
D: Vậy thì ông
có ý nói là chúng tôi thực sự tham gia nhưng mọi người không biết điều đó?
P: Phải. Ông
nói rằng các đường biên giới sẽ lại thay đổi, và chúng sẽ tiếp tục thay đổi.
Những đường biên không được vẽ mãi mãi. Các ranh giới có thể được vẽ bằng
cát và tồn tại vĩnh viễn.
D: Có phe nào sẽ
là phe chiến thắng không?
P: Không, không
phải như những gì bà định nghĩa một phe chiến thắng. Đó là nói, hòa bình
trong trạng thái hòa bình. Nhưng sẽ có chiến tranh trong khu vực đó trong nhiều
năm.
D: Liệu công
chúng có bao giờ biết rằng chúng tôi đang tích cực tham gia không?
P: Có. Ông nói
rằng bằng chứng đã được đưa ra, nhưng nhiều người vẫn chưa nhận ra nó là gì.
Tuy nhiên, dần dần sẽ có người nhận ra rằng điều này đã diễn ra trong một thời
gian.
D: Sau đó, nó cuối
cùng sẽ được công khai?
P: Nó sẽ dần
trở nên công khai, chứ không phải là được công khai.
Sau đó tôi hỏi
ông ấy về tình hình ở Haiti, nơi quân đội của chúng tôi đã được gửi đến vào
năm 1994. Sự tham gia của chúng tôi ở đất nước đó đã được dự đoán trong THẾ KỶ
II-78 (Tập 2, trang 37).
P: Ông ấy nói
ông ấy coi đây là đứa con hoang không mong muốn của nền dân chủ.
D: Đó là thuật
ngữ thú vị. Vậy Hoa Kỳ sẽ tham gia vào bất kỳ cuộc xung đột nào ở đó sao?
P: Ông ấy nói
rằng ông ấy tự cho rằng bà đang đề cập đến nhiều sự tham chiến hơn
là những gì mà bà đã đề cập. Và vậy nên, ông ấy sẽ đoán trước
rằng bà có ý nói đến nhiều sự tham chiến hơn là những gì mà bà
đã nói. Ông ấy nói rằng vậy thì câu trả lời sẽ là sẽ có ít sự
tham chiến hơn, chứ không phải là nhiều hơn, trong thời gian ngắn. Ông
ấy không nhìn thấy có cuộc xung đột nào. Những gì ông ấy nhìn thấy
là một nỗ lực giải cứu lớn. Ông ấy nói rằng hòn đảo không ở vào
vị thế có thể chiến đấu. Nó quá hư hại, quá nghèo nàn. Điều kiện ở
đó sẽ rất tệ vì một số kẻ nhỏ nhen nắm quyền đang cố gắng giữ khư khư lấy quyền
lực của họ. Ngay từ đầu họ vốn đã phải gánh chịu thất bại rồi, vì
những phương pháp của họ. Ông ấy đang cho tôi thấy là họ đang bị hạ
bệ bởi chính người dân của mình. Nhưng điều đó sẽ gây ra nhiều đau đớn và
đổ máu cho họ. Và họ sẽ cần giúp đỡ sau khi chữa lành. Những gì cần xảy ra là
mọi người hãy tập hợp lại với nhau và cố gắng giúp đỡ họ, đồng thời cố gắng điều
chỉnh mọi thứ trở lại bình thường. Bởi vì người dân không muốn gì ngoài việc được
sống trong hòa bình. Nhưng ông nói rằng đây sẽ là một sự kiện không đáng kể, so
với những sự kiện sẽ xảy ra ở các khu vực khác.
D: Vậy thì nó
ít nhiều bị thổi phồng lên rồi.
P: Chỉ có thể
nói rằng sẽ có nhiều vấn đề cấp bách hơn ở những nơi khác, khiến nó có vẻ
như không đáng kể, nếu so sánh. Ví dụ, các khu vực ở Châu u, các quốc gia thuộc Thị trường chung sẽ sụp
đổ, về mặt tài chính. Sẽ có sự sụp đổ của Thị trường chung Châu u.
D: Ông có thể
cung cấp cho chúng tôi ý tưởng cụ thể về khung thời gian không?
P: Có nhiều ảnh
hưởng đến sự kiện này, có thể loại trừ hoặc bao gồm nó và các sự kiện khác
nữa. Tại thời điểm này, có nhiều vấn đề chưa được giải quyết có thể ngăn cản
nó, hoặc có thể khiến nó trầm trọng hơn. Vào thời điểm này, đó là một điểm
giao nhau trong dòng thời gian, mà quá mờ nhạt để có thể phân biệt rõ
kết quả là như thế nào. Tuy nhiên, sẽ có những sao chổi rơi xuống biểu thị
sự bắt đầu của sự kiện này. Đây sẽ là màn trình diễn của nhiều, rất nhiều sao
băng trong Thời kỳ Đại loạn. Như vậy bầu trời đêm sẽ sáng như ban ngày. Ông
ấy nói rằng đây là tín hiệu cho thấy những tiếng động từ bên dưới lòng đất sẽ
tăng lên. Đó là nói theo nghĩa bóng và nghĩa đen. Đây sẽ là một điềm báo, không
phải là một nguyên nhân.
Sau đó, tôi hỏi
ông ấy rằng liệu những dự đoán của ông ấy về kẻ Chống – Chúa sắp đến và
Chiến tranh thế giới thứ ba có còn nằm trong tầm ngắm hay không, hay chúng
tôi đã tìm cách ngăn chặn chúng hoặc làm chậm chúng. Ông ấy nói rằng không có
gì thay đổi vào thời điểm này. Các sự kiện vẫn đang hình thành, nhưng những nỗ
lực tập trung của người dân trên thế giới vẫn có thể làm giảm bớt tác động.
Sau buổi thôi
miên ngắn này, Brenda đến và mọi việc lại bắt đầu. Phil chưa bao giờ gặp cô ấy.
Anh ấy ở lại một lúc để xem cuộc phỏng vấn.
Vài tuần sau
buổi thôi miên này, Tổng Thống Triều Tiên đã qua đời vì một cơn đau tim. Điều
này có vẻ là tự nhiên bởi vì ông ta đang ở trong tín hiệu cấp cứu của
mình. Người con trai chưa từng được dạy bất cứ điều gì về điều hành chính phủ,
kế vị ông. Hắn ta dường như là một kẻ ngu ngốc làm việc không hiệu quả,
chính xác là loại con rối mà nhóm Cabal muốn cho nắm quyền trên đất nước
đó. Tình hình Triều Tiên đã đến mức khủng hoảng, và dường như đang trên đà
bùng nổ. Chúng tôi đang ở ngã ba đường và chuẩn bị tìm cách phá hủy vũ khí hạt
nhân ở Triều Tiên, và cuộc đối đầu nguy hiểm dường như không thể tránh khỏi.
Cái chết của Tổng Thống đã tránh được điều này. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng
Triều Tiên đã có các vũ khí hạt nhân, nhưng vẫn chưa phát triển các hệ thống
phóng đi, như Nostradamus đã nói. Ban lãnh đạo mới đã tỏ ra kém hiệu quả trong
việc điều hành đất nước đến mức vào mùa Thu năm 1996, Triều Tiên được cho
là đang trên bờ vực của nạn đói.
Một tuần sau buổi
thôi miên này, tôi đang ở sân bay Dallas, trên đường đến một buổi diễn thuyết
khác thì tôi chú ý thấy trang bìa của Tạp chí Times trên sạp báo. Nó có nội
dung: “Bắc Triều Tiên, Con quái thú không đầu” hoàn toàn phù hợp với mô tả của
Nostradamus về việc mất một trong những con rắn của thủy quái (hydra).
Tôi biết về
hydra như một sinh vật cực nhỏ mà chúng tôi đã nghiên cứu trong sinh học. Nó có
nhiều cánh tay tương tự như một con bạch tuộc. Nhưng tôi phát hiện ra hydra
cũng là một sinh vật trong thần thoại Hy Lạp và một con rắn có chín đầu. Mỗi
lần một đầu bị chặt đứt, hai đầu mới lập tức xuất hiện. Con quái
vật cuối cùng đã bị tiêu diệt bởi Hercules.
Biểu tượng rõ
ràng và hoàn toàn phù hợp với việc Nostradamus sử dụng thần thoại Hy Lạp để mã
hóa những tiên đoán của mình. Nhiều cánh tay của hydra được nối liền với một
cơ thể, tượng trưng cho nhiều bộ phận được điều khiển bởi một bộ phận trung
tâm, điều này một lần nữa cho thấy rằng, Triều Tiên chỉ là một trong những con
rối. Một con rối, mà trong trường hợp này, đã bị cắt khỏi trung tâm, nhưng sẽ
được thay thế bằng một con rối khác: chiếc đầu mọc ra lại. Tôi cũng băn khoăn
về việc nó bị Hercules giết. Liệu điều này có thể đang ám chỉ đến Người
Hùng (Ogmnios), Hercules của người Celtic, người mà cuối cùng sẽ lật đổ kẻ
Chống – Chúa hay không?
Sau cuộc phỏng vấn
của cô ấy với Denny, Brenda nằm xuống ghế dài và chúng tôi bắt đầu buổi thôi
miên của mình. Denny muốn tôi hỏi một vài câu hỏi của cô ấy ngoài những câu hỏi
mà tôi đã hỏi Phil. Tôi đã cố gắng lặp lại những câu hỏi tương tự để chúng ta
có thể so sánh câu trả lời của họ. Đây cũng là lý do để họ không có mặt trong
buổi phỏng vấn của nhau. Brenda sẽ không biết về những gì mà Phil đã nói.
Tôi đã sử dụng kỹ
thuật hồi quy của mình và từ khóa hoạt động tốt mặc dù đã vài năm kể từ khi
tôi làm việc với Brenda. Giống như Phil, cô ấy trở nên không ý thức đến những
người quay phim và những ánh đèn rực rỡ xung quanh khi cô ấy rơi vào trạng
thái thôi miên sâu quen thuộc. Cô ấy không gặp khó khăn gì khi xác định vị trí
của Nostradamus, và ông ấy biết rằng thời gian đã trôi qua trong thế giới của
chúng tôi kể từ lần tiếp xúc cuối cùng của chúng tôi thông qua Brenda.
B: Tôi đang nói
chuyện với Michel de Notredame. Ông ấy rất vui khi gặp tôi. Ông ấy nói rằng một
phần tài năng của ông ấy là, ông ấy có cảm giác về nhiều tầng thời gian. Và
ông ấy biết rằng trong dòng thời gian của chúng tôi, một khoảng thời gian đã
trôi qua kể từ khi tôi thực hiện điều này. Và ông ấy bày tỏ niềm vui khi
tôi có mặt ở đây để giao tiếp.
D: Cô có thể nói
với ông ấy rằng kể từ khi chúng tôi hoàn thành việc giải thích tất cả các bài
thơ bốn câu đã được đưa đến cho chúng tôi, những bài thơ này đã được in
thành ba cuốn sách, và chúng hiện có sẵn trong khoảng thời gian của chúng tôi.
B: Ông ấy gật đầu
hài lòng. Ông ấy nói ông ấy biết điều đó sẽ xảy ra. Và ông ấy nói rất tốt khi
thông tin này được đưa ra bên ngoài. Nó cần phải được như thế. Ông ấy làm điều
này để cảnh báo chúng ta, và có lẽ để cho chúng ta một cơ hội để cố gắng thay đổi.
Tôi đồng ý hỏi một vài câu hỏi cơ bản của Denny, và tôi hỏi Nostradamus rằng liệu
ông ấy có phiền khi phải nhắc lại thông tin đã được đề cập không.
B: Ông ấy nói rằng
ông ấy hiểu. Nó giống như dạy một lớp học. Và khi bạn có một lớp học sinh mới,
bạn phải xem lại cùng một tài liệu một lần nữa, để học sinh mới bắt kịp với
những học sinh nào giờ đã học ở đó.
D: Đúng vậy.
Chúng tôi biết rằng các bài thơ bốn câu mà ông đã viết là ở dạng mã. Ông ấy
có thể giải thích cho mọi người hiểu tại sao ông ấy lại làm điều này không?
B: Vâng. Ông ấy
nói rằng bà phải hiểu rằng trong khoảng thời gian ông ấy ở châu u, đó là khoảng thời gian rất bất ổn. Kinh tế
hỗn loạn vì bệnh dịch, và người chết vì bệnh tật mà không ai có thể làm gì được.
Và sau đó là sự hỗn loạn chính trị của việc tất cả các hoàng tử, công tước và
hoàng tộc khác nhau muốn có quyền lực cho mình. Và cũng có những linh mục, và
những người đại diện của nhà thờ, những người cũng muốn sử dụng quyền lực cho
riêng mình, và cho lợi ích trong việc khiến cả thế giới trở thành một phần của
nhà thờ. Do đó, với tất cả tình trạng hỗn loạn này, mọi người phải tuân theo
những gì được cho là có thể chấp nhận được. Và nếu bạn cố gắng làm những điều
khác, các nhà chức trách sẽ không thích điều đó, bởi vì nó sẽ làm hỏng thể
chế của họ (*nguyên văn: hỏng quầy hàng táo của họ), có thể nói là vậy. Đặc
biệt là các cấp chính quyền thuộc nhà thờ. Và ông ấy nói với tôi rằng tài năng
của ông ấy đã có từ rất lâu, bắt đầu từ khi mà ông ấy có thể ghi nhớ được.
Và ông ấy cảm thấy rằng đó là một món quà từ Chúa. Ông ấy nói rằng thực sự
không có tài năng đặc biệt nào trong gia đình ông ấy mà ông ấy từng được
biết tới. Ông ấy nghĩ rằng đó có thể là một món quà cụ thể được trao cho một
cá nhân trọng yếu vào một thời điểm cụ thể, khi cần thiết. Ông ấy nói có lẽ họ
(*ông ấy và Chúa) đã đồng ý với điều đó trước khi họ đến. Ở bất kỳ mức độ
nào, nó đã ở đó. Và ông ấy cảm thấy nhiệm
vụ của mình là phải đưa ra những thông tin mà ông ấy nhận được, bất kể những
người có thẩm quyền có nói gì chăng nữa. Nhưng đồng thời sẽ chẳng ích gì nếu
ông ấy bị giết ngay lập tức, hoặc bị bỏ tù. Vì vậy, ông ta đặt chúng dưới
dạng mã, để thông tin vẫn sẽ ở đó, nhưng họ sẽ không thể sử dụng nó làm bằng
chứng trực tiếp trước tòa, vì họ thực sự không thể chứng minh được bất cứ điều
gì, nếu họ quyết định bắt bớ ông ấy vì điều đó. Ông ấy nói rằng ông ấy đã viết
ra những gì ông ấy nhìn thấy. Ông ấy đã rất thành thật với điều đó. Ông ấy nói
rằng việc nói dối về những gì mà ông ấy nhìn thấy trong những linh ảnh của
mình sẽ gây nguy hiểm cho linh hồn của ông ấy. Và ông ấy nói rằng có
những thứ sẽ xảy ra, và có những thứ có xác suất xảy ra rất cao,
nhưng người ta vẫn còn cơ hội để thay đổi tình hình, nếu họ cố
gắng. Nếu người ta nói rằng một số dự đoán của ông ấy là sai, ông ấy không nói
rằng ông ấy là hoàn hảo – ông ấy là một con người, nhưng ông ấy nói
rằng với tất cả khả năng của mình, ông ấy đã viết ra những gì ông
ấy nói. Nếu một số điều ông ta đã thấy không thành hiện thực, có lẽ mọi người
đã có thể thay đổi tình hình mà trong đó, họ có thể tránh những điều ông ta đã
thấy. Ông ấy nói, cũng nên nhớ rằng mỗi bài thơ bốn câu của ông ấy
có nhiều ứng nghiệm. Nó giống như một hình xoắn ốc vậy; thời gian và lịch
sử chuyển động theo hình xoắn ốc. Mọi thứ diễn ra vòng vòng và một tình huống
tương tự xuất hiện, nhưng nó là về sau này và nó hơi khác một chút. Và mặc dù
người ta có thể thấy một tình huống có vẻ phù hợp với một bài thơ bốn câu, và
nói, “Ồ, nhưng nó đã không xảy ra. Nó không ứng nghiệm. Bài thơ bốn câu
bị sai.” Ông ấy nói rằng đó có thể không nhất thiết là ứng nghiệm chính xác của
bài thơ. Hãy đợi cho đến khi tình huống xảy ra khoảng một thế kỷ nữa, và sau
đó hãy xem điều gì sẽ xảy ra. Những linh ảnh luôn xuất hiện và việc phải đưa
những thứ này vào dưới dạng mã sẽ làm chậm quá trình phần nào. Ông ấy nói rằng
thật bực bội khi phải làm điều này. Và vì vậy, bất cứ khi nào ông ấy nhìn thấy
một loạt các linh ảnh có vẻ giống nhau, ông ấy sẽ cố gắng cô đọng chúng
thành một bài thơ bốn câu, để ít nhất có thông tin ở đó, ở một dạng nào đó.
Ông ấy nói rằng giá như tình hình ở thời của ông ấy khác đi, thì
ông ấy hẳn đã viết thêm nhiều bài thơ bốn câu để nói về các tình
huống khác nữa. Nhưng tình hình đã không được như thế.
D: Có rất nhiều
học giả trong thời đại của chúng ta - những người nghĩ rằng ông ấy đã có một
thông điệp được mã hóa trong hệ thống đánh số các thế kỷ của ông ấy. Ông ấy có
muốn nói gì về điều đó không?
Chúng tôi đã đề
cập đến vấn đề này trong Tập 1, Chương 5 và ông ấy đã nói đùa về nó hơn là đưa
ra một câu trả lời trực tiếp. Điều này có thể bổ sung thêm thông tin.
B: Ông ấy nói
rằng lần đầu tiên ông ấy thiết lập chúng, ông ấy đã quay lại và sắp
xếp lại chúng một lần nữa, theo một thứ tự tốt hơn. Nếu những con số
mà ông ấy đã sử dụng đã được giữ lại, thì đó là một phần của bức tranh tổng
thể. Ông ấy nói ông ấy đã sử dụng những thứ như kết quả chiêm tinh và thần số
học và nhiều công cụ mã hóa khác, mà ông ấy đã dùng để mã hóa các con số.
Ông ấy nói ông ấy rất nể phục (*nguyên văn: ngả mũ chào) các học
giả vì đã nhận ra điều này. Ông ấy nói rằng đó là một trong những điều
ông ấy đã làm để cố gắng vượt qua Tòa án Công giáo.
D: Các học
giả muốn biết rằng liệu chúng tôi có nên chú ý hơn đến bất kỳ manh
mối nào trong cách đánh số các bài thơ bốn câu không?
B: Ông ấy nói
rằng điều đó hẳn là rất khôn ngoan. Và ông ấy nói rằng thông qua
cách mà việc đánh số được sử dụng trong bản thân các bài thơ bốn
câu, bà có thể hiểu sơ được về loại hệ thống mà ông ấy đã dùng để
đánh số. Ông ấy nói rằng nó có cùng một khuôn khổ cơ bản. Tất nhiên,
tất cả còn tùy vào việc họ có đang sử dụng cùng một cách đánh số mà ông ấy đã
sử dụng vào thời của mình hay không. Ông ấy hy vọng rằng cách đánh số đã được
giữ nguyên. Ông ấy nói rằng có thể là khá khôn ngoan, khi theo dõi lịch sử của
các ấn bản khác nhau của các bài thơ bốn câu của ông ấy, để đảm bảo rằng
không có thay đổi từ việc biên tập nào đã len lỏi vào.
Trong Tập 3,
chúng tôi đã phát hiện ra rằng một số thay đổi chắc chắn đã len lỏi vào khi
chúng tôi tìm thấy một số bài thơ bốn câu đã bị thay đổi, và một số bài mà
ông ấy nói rằng ông ấy không hề viết. Hầu hết những sự sai biệt này là ở các
bài thơ bốn câu thuộc Thế kỷ thứ Mười.
Sau đó, tôi quyết
định hỏi một số câu hỏi tương tự như tôi đã hỏi Phil. Tôi đã nói với ông ấy
rằng tôi đang nói chuyện với ông ấy từ năm 1994.
B: Ông ấy đưa
ra một nhận xét. Ông ấy đã vuốt râu mình một chút. Ông ấy nói, “Năm
1994. Tôi nhớ một số câu thơ mà tôi đã viết về khoảng thời gian đó. Tôi sẵn
sàng cá rằng bà đã gặp một số trận động đất.” (Tôi đồng ý.) Ông ấy nói
rằng sẽ rất khôn ngoan nếu theo dõi kiểu hình của các trận động
đất. Chúng xảy ra ở đâu và khi nào, và sức mạnh ra sao, bởi vì có một kiểu
hình tổng thể có liên quan.
D. Ông ấy có thể
nói cụ thể hơn được không? Ý ông ấy là gì khi nói đến một kiểu hình?
B: Ông ấy nói rằng
đó là điều có thể quan sát được, liên quan đến một số bài thơ bốn câu của
ông ấy. Năng lượng được tạo ra bởi công nghiệp và chiến tranh và những thứ như
vậy, đã không hài hòa với năng lượng tự nhiên của Trái đất, và đã gây ra sự mất
cân bằng. Do đó, khi mọi thứ phát triển trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế
và chính trị, sẽ có tiếng vang của điều này dội lại từ trong thế giới tự
nhiên.
Tôi đã hỏi ông ấy
có quen thuộc với đất nước Bắc Triều Tiên không.
B: Ông ấy nói rằng
là một người ở thời của ông ấy, ông ấy không biết đất nước đó. Nhưng từ
tài năng của mình, ông ấy biết rằng đó là một quốc gia châu Á.
D: Vào năm
1994, họ nói rằng họ có khả năng trang bị vũ khí hạt nhân. Ông ấy
có thể thấy gì về điều đó không?
B: Ông ấy có thể
thử nhìn xem. (Tạm dừng) Ông ấy không thể hiểu rõ về nó. Ông ấy nói nó giống
như một bức màn che hoặc một bức màn mây cản đường. Ông ấy cảm thấy rằng có thể
có một số rắc rối sắp xảy ra vì từ hình ảnh ông ấy đang cho tôi xem, giống
như tôi đang nhìn xuống Trái đất từ một vị trí thuận lợi trên cao qua một màn
khói. Và tại các điểm khác nhau trên bản đồ, có một tia sáng lóe lên. Ông ấy
nói rằng ông ấy đang cho tôi thấy những tia sáng chói lọi ở Trung Đông, nhưng
ông ấy không thể nói được nguồn gốc của chúng là gì.
D: Họ sợ rằng sẽ
có đối đầu quân sự hoặc chiến tranh xảy ra với đất nước Bắc Triều Tiên và Hoa Kỳ
hoặc phần còn lại của thế giới.
B: Ông ấy cảm thấy
rằng nếu ai đó ghi nhớ phong tục của vùng đất, và cố gắng xử lý theo đó, thì
nhà lãnh đạo của Triều Tiên là người đáng xấu hổ hơn bất cứ điều gì. Ông ấy cảm
thấy rằng nơi chính yếu cần được cảnh báo là Trung Đông, vì ông ấy tiếp tục tập
trung vào Trung Đông. Sau đó tôi hỏi ông ấy về “vùng xám” của châu u, khu vực mà ông đã gọi là Macedonia và
Albania. Tôi hỏi liệu ông ấy có thể nhìn thấy những gì đang xảy ra ở đó vào năm
1994 không.
B: Ông ấy nhìn
thấy những người anh em chống đối lẫn nhau. Những gì ông ấy nhìn
thấy sẽ khiến bà khóc. Ông ấy nói Trái Đất sẽ khóc. Những đứa con
của Đất Mẹ không nên chống lại nhau như vậy.
D: Có phải Hoa Kỳ
sẽ tham gia vào cuộc xung đột ở đó không?
B: Ông ấy nói rằng
nhiều người sẽ tham gia, đặc biệt là Châu
u và Hoa Kỳ, để cố gắng khắc phục tình hình. Và điều đáng tiếc là việc
khắc phục giống như một chiếc băng dán hơn là một phương pháp chữa lành. Họ
đang cố gắng sửa chữa bên ngoài mà không đi vào lòng người. Việc khắc phục phải
hợp lòng dân, và không chỉ bằng việc cấm họ dùng súng.
Denny nói nhỏ với
tôi. Cô muốn biết liệu ông có điều gì muốn nói với người dân Hoa Kỳ, đặc biệt
là về tình trạng của thế giới nói chung hay không.
B: Ông ấy hỏi,
“Cụ thể là khía cạnh nào?” Có nhiều thứ xảy ra mà ông ấy đã nhìn
thấy. Có chính trị. Có vật chất. Có kinh tế. Và có những thứ liên
quan đến nhà thờ. Khía cạnh nào vậy?
D: Những điều
kiện vật chất. Chúng ta hãy thử nói về khía cạnh này trước đã.
B: Ông ấy nói
rằng mọi thứ đang mất cân bằng. Các nguồn năng lượng không hài hòa, và phải sớm
có sự cân bằng. Trái đất không thể chịu đựng sự căng thẳng này lâu hơn nữa. Ông
ấy nói, nói chung, cả hành tinh đang gặp nạn. Hành tinh đang kêu khóc. Và điều
gì đó phải được cho đi để giúp mọi thử trở lại thế cân bằng. Ông
ấy nói rằng những điều sẽ xảy ra ảnh hưởng đến phần lớn mọi người trên toàn thế
giới, trực tiếp hoặc gián tiếp. Ông ấy nói rằng thời tiết sẽ tiếp tục diễn
biến lạ lùng. Sẽ có những hiện tượng kỳ lạ được nhìn thấy trên bầu trời. Và
đại dương sẽ dậy sóng.
D: Những hiện tượng
kỳ lạ nào trên bầu trời vậy?
B: Tia sáng nhấp
nháy. Những vệt sáng. Những ngôi sao ... ông ấy chỉ cho tôi những ngôi sao quay
xung quanh, giống như một người đang trên đu quay ngắm nhìn các vì sao. Ông ấy
nói Trái đất sẽ phải ... ông ấy sử dụng cách ví von “cô ấy nhún vai”, để mọi
thứ được ổn định trở lại.
D: Điều đó ám chỉ
việc gì, trong phép tượng trưng của ông ấy?
B: Ông ấy nói
rằng thông qua tài năng của mình, ông ấy đã nhìn thấy và ý thức
được rằng những nhà khoa học của các người biết rằng khi Trái Đất
quay quanh, nó không phải là một vòng quay đều, rằng nó sẽ lắc lư
xung quanh một chút khi nó quay. Ông ấy nói nó giống như một con quay. Nó sẽ
quay tương đối thẳng trong một thời gian, và sau đó nó sẽ thực hiện một vài lần
lộn mạnh hơn, sau đó đứng thẳng lên và quay đều một lần nữa sau khi đã thăng bằng.
Ông ấy nói rằng nó giống như đang ở hội chợ và xem những người đi bộ trên dây.
Họ đang đi đều… và rồi họ bắt đầu mất thăng bằng và họ phải lắc lư
qua lại để lấy lại thăng bằng.
D: Nó sẽ tác
động thế nào đến Trái Đất?
B: Ông ấy nói sẽ
có gió mạnh và động đất và bão. Và ông ấy nói rằng người dân trên Trái đất sẽ
khóc trong tai họa của họ. Ông nói rằng đặc biệt là những người ở những khu vực
không ổn định sẽ cần phải cẩn thận, bởi vì khi điều này bắt đầu, mặt đất sẽ bị
trượt. Và ông ấy nói rằng sẽ có những thay đổi vật chất đối với Trái đất. Ông
ấy biết rằng trong nhiều bài thơ bốn câu của mình, ông ấy ấy đã nói rằng
nếu người ta cố gắng, thì người ta có thể tránh được một số thay đổi có liên
quan đến chính trị và xã hội này. Nhưng liên quan đến những thay đổi đối với
Trái đất này, ông ấy không chắc người ta sẽ có thể làm gì để tránh được
chúng. Ông ấy nói rằng có thể đã quá muộn vì sự xáo trộn do chiến tranh gây
ra và những gì con người đang làm với Trái đất.
D. Ý của ông ấy
là tình huống này là một tình huống lớn hơn sao?
B: Nó giống như
một hiệu ứng tích lũy hơn. Một khi nó đến một thời điểm nhất định, lượng năng
lượng nó cần để hoàn tác những gì đã làm lớn hơn rất nhiều, so với việc để nó
tiếp tục và tự giải quyết. Ông ấy nói vào thời điểm này, điều tốt nhất mà người
ta có thể làm là tiếp tục làm việc hướng về ánh sáng và phát huy hết năng lượng
tích cực có thể, để cố gắng giảm thiểu các tác động càng nhiều càng tốt.
D: Có một câu
hỏi nữa mà tôi muốn hỏi ông. Ông ấy có biết sao Mộc không?
B: Có. Một
trong những nguồn ánh sáng tuyệt vời trên bầu trời.
D: Vâng. Ở thời
của chúng tôi, năm 1994, họ đang nói về khả năng một sao chổi lớn va vào Mộc
tinh. Và họ tự hỏi, nếu điều đó xảy ra, liệu điều này có ảnh hưởng đến Trái đất
theo cách nào đó không?
B: Ông ấy nói sẽ
có những tác động lên Trái đất, bởi vì mọi thứ đều được kết nối với mọi thứ
khác. Về mặt vật lý, các tác động sẽ rất tinh tế, ít nhất là lúc đầu. Có thể có
một số hiệu ứng về lâu dài, nhưng không phải bất kỳ tác động đe dọa tính mạng
tức thì nào hoặc bất kỳ điều gì tương tự. Ông ấy nói rằng tác động chính của
nó đối với Trái Đất có liên quan đến mức năng lượng cao hơn. Ông ấy nói rằng
vì mọi thứ được kết nối với mọi thứ khác thông qua các mức năng lượng khác nhau,
nên vụ va chạm sẽ ảnh hưởng đến tất cả mọi người thông qua dao động cao hơn của
những dòng năng lượng này, thứ mà được tạo ra bởi sao Mộc. Vì dù sao thì cấu
hình của các hành tinh cũng ảnh hưởng đến con người, nên sẽ khá khôn ngoan khi
mọi người ý thức được sao Mộc ảnh hưởng đến tử vi của họ như thế nào. Để họ
sẽ có thể chuẩn bị cho sự kiện tai họa này, bởi vì những điều tai họa sẽ xảy
ra trong lĩnh vực đời sống tương ứng, trong biểu đồ tử vi của họ.
D: Tôi nghĩ mọi
người trong thời đại của chúng tôi đang lo lắng liệu nó sẽ ảnh hưởng đến thời
tiết của chúng tôi theo bất kỳ cách nào, hoặc ảnh hưởng đến điều kiện vật
chất của Trái đất hay không.
B: Hiệu ứng sẽ
tương tự như có một số vết cháy nắng xấu. Trái đất đã trải qua những điều tồi
tệ hơn nhiều trong quá khứ, liên quan đến mặt trời và các vết cháy và đã vẫn
tồn tại.
D: Ông ấy có gì
để nói về kinh tế Mỹ hay thế giới nói chung, trong năm tới không?
B: Về kinh tế,
ông ấy nói rằng mặc dù mọi thứ có vẻ ổn trên bề mặt, nhưng tận sâu bên trong,
về cơ bản chúng vẫn không ổn định chút nào. Tiền đề mà nền kinh tế dựa trên
là một tiền đề không chắc chắn. Và ông ấy nói rằng đó là một cấu trúc không chắc
chắn. Chủ yếu là cầu nguyện rằng không có điều gì trọng đại hoặc tai họa xảy
ra liên quan đến các sự kiện thế giới, bởi vì nó sẽ có khả năng ảnh hưởng lớn đến
nền kinh tế. Ông ấy đang nói rằng thế giới đã trở nên quá phụ thuộc vào “tiền bạc
tưởng tượng”. Và ông ấy nói, vì mọi thứ đều sao chép với tương lai, với những
khả năng - và người ta không bao giờ biết chắc chắn điều gì sẽ xảy ra trong
tương lai - thay vì đối phó với tiền thật, điều đó giống như xây một ngôi nhà
trên cát.
Sau đó, tôi đã
hỏi câu hỏi cuối cùng của mình về việc liệu những tiên đoán về Kẻ Chống –
Chúa thứ ba và khả năng xảy ra Chiến tranh thế giới thứ ba có còn nằm trong
tầm ngắm hay không, hay liệu chúng ta đã xoay sở để thay đổi được khả năng
này.
B: Sự thay đổi
chưa đủ rộng rãi để có thể ảnh hưởng đến toàn bộ thế giới. Mặc dù mọi thứ đang
thay đổi, giống như ở châu u, Hoa Kỳ và
một số quốc gia khác, những khu vực trên thế giới có khả năng gặp vấn đề nhất
là những khu vực ít thay đổi nhất trên thế giới. Nhưng phần còn lại của thế
giới cần hướng đến những suy nghĩ tích cực và năng lượng tích cực. Năng lượng
cho sự phát triển, thay đổi và hài hòa, đặc biệt là ở Trung Đông nói chung, để
nó sẽ giúp khuếch tán đi bớt những năng lượng tiêu cực tích tụ ở đó.
Sau đó, tôi đã sẵn
sàng để kết thúc buổi thôi miên, thì Nostradamus ngăn tôi lại.
B: Ông ấy nói rằng
ông ấy còn một điều nữa cần bổ sung về Trung Đông. Ông ấy nói rằng sẽ có một sự
cố liên quan đến một số loại tạp chất hoặc ô nhiễm ở Ấn Độ Dương. Và để giữ
cho ô nhiễm không tràn ra, họ sẽ phải phong tỏa hoặc phá hủy Kênh đào Suez để
nó không lan đến Địa Trung Hải. Ông ấy nói rằng khu vực đó trên thế giới sẽ có
điều gì đó không ổn với nước biển và họ sẽ cố gắng giữ nguyên hiện trạng của
nó. Họ sẽ muốn giữ cho nó không lan rộng. Và ông ấy nói rằng họ có thể phải loại
bỏ Kênh đào.
D: Ông ấy có thể
nhìn thấy đây sẽ là kiểu tạp chất nào không?
B: Hình ảnh
mà ông ấy cho thấy là nước đang chuyển màu. Ông ấy nói rằng do một chất trong
nước, hoặc có lẽ là một số vi sinh vật - ông ấy không gọi đó là vi sinh vật.
Ông ấy đang cho tôi xem hình ảnh. Ông ấy không có tên gọi nào dành cho
nó. Đó là do sự mất cân bằng nào đó trong nước, hoặc có lẽ một số bức xạ, hoặc
cả hai, nó trở nên mất cân bằng và mất kiểm soát. Nó bắt đầu nhân lên nhanh
chóng và giết chết cá và thực vật. Họ phải cố gắng làm điều gì đó để ngăn chặn
nó, và giữ cho nó không lan rộng. Rõ ràng nơi nó bắt đầu sẽ là trong một phần của
đại dương mà không có các dòng chảy lớn, chỉ là những dòng chảy nhỏ. Và họ cảm
thấy họ sẽ có cơ hội kiểm soát nó trước khi nó đi vào các dòng chảy lớn, bởi vì
họ sợ nếu điều đó xảy ra, nó sẽ lan rộng khắp các đại dương trên Trái đất.
D: Nó bắt đầu ở Ấn
Độ Dương, ông đã nói vậy.
B: Nó ở tại góc
Ấn Độ Dương gần Ả Rập.
D: Và chuyện này
sẽ xảy ra vào lúc nào? Vào khoảng đời của chúng ta sao?
B: Ông ấy nói rằng
điều này sẽ sớm xảy ra, trong vòng ba năm tới hoặc khoảng đó.
D: Vì vậy, đây
là một loại thảm họa khác mà chúng ta sẽ phải dè chừng.
Sau những buổi
thôi miên này, Denny rời ngay đến sân bay để bắt máy bay trở về Hollyvood, và
những người còn lại trong đoàn thu thập thiết bị của họ và quay trở lại Little
Rock.
Hai tuần sau
buổi thôi miên này, Tổng thống Triều Tiên qua đời vì một cơn đau tim rõ ràng.
Tôi đã gọi cho studio FOX và nói chuyện với nhà sản xuất mà tôi đã từng làm việc.
Tôi nói với cô ấy rằng có vẻ như dự đoán đã trở thành hiện thực, nhưng Phil
lại có cảm giác đó không phải là một cái chết tự nhiên, mà là một vụ ám sát.
Cô ấy nói rằng một số nhà tâm linh cũng đã gọi đến studio với những ấn tượng tương
tự. Tôi nói rằng thông tin của chúng tôi chắc chắn đã được xác thực, bởi vì đã
có ngày tháng trên đoạn phim mà đã được quay ở Favetteville.
Cuộc phỏng vấn
này vốn là sẽ được chiếu vài tháng sau khi ghi hình trên chương trình
Encounters của FOX. Một phần của nó đã được chiếu trong bản xem trước, nhưng
các cuộc phỏng vấn đã bị lược bỏ khỏi chương trình vào phút cuối. Tôi đã được
thông báo rằng nó sẽ được sử dụng sau đó, nhưng theo như tôi biết thì nó chưa
bao giờ được chiếu trên chương trình Encounters. Kể từ năm 1994, tôi đã được gọi
để thực hiện các cuộc phỏng vấn khác cho đài đó, và tôi hỏi họ chuyện gì đã xảy
ra với bộ phim. Dường như không ai biết, nhưng điều này có thể hiểu được vì
nhân viên của họ thay đổi thường xuyên, và một người được chỉ định làm việc
trong một chương trình có thể không biết gì về những gì người khác đang làm
cả. Nó vẫn có thể được chiếu vào một ngày nào đó, bởi vì nó chứa thông tin
xác thực được khả năng nhìn thấy tương lai của Nostradamus.
Rõ ràng rằng
việc cứ tiếp tục cập nhật những quyển sách này là không thể. Chúng
là một thực thể đang phát triển và tiếp tục thay đổi khi thông tin xác minh tiếp
tục được đưa ra ánh sáng. Rõ ràng là chúng ta đang ở trong Thời kỳ Đại loạn,
như Nostradamus đã thấy, và việc chúng ta có nhìn thấy viễn cảnh tồi
tệ nhất xảy ra trong tương lai hay không là tùy thuộc vào chúng ta. Những
người quen thuộc với tài liệu này sẽ có thể nhận ra liệu những ảnh hưởng tinh
tế và dường như nhỏ bé sẽ có ảnh hưởng đến bức tranh tổng thể lớn hơn hay
là không. Tôi sẽ tiếp tục thu thập thông tin từ nghiên cứu của tôi và các độc
giả của tôi, và nhiều thông tin khác sẽ được bổ sung vào mỗi lần tái bản của bộ
ba quyển sách này. Nếu độc giả đã có các ấn bản cũ hơn của cuốn sách này (Tập
Một), phần Phụ Lục này có thể được mua riêng. Hãy liên hệ với nhà xuất bản để
biết thêm chi tiết.
Về tác giả
Dolores Cannon
sinh năm 1931 tại St. Louis, Missouri. Bà được học hành và sống ở Missouri
cho đến khi kết hôn vào năm 1951 với một người lính Hải quân. Bà đã dành 20
năm tiếp theo để đi du lịch khắp nơi trên thế giới với tư cách là một người vợ
điển hình của Hải quân và nuôi nấng gia đình của mình.
Vào năm 1968,
bà ấy đã có cuộc tiếp xúc lần đầu với tiền kiếp thông qua thôi miên
hồi quy, khi chồng của bà, một người thôi miên nghiệp dư, tình cờ gặp
được tiền kiếp của một người phụ nữ có vấn đề về cân nặng mà ông
ấy đã làm việc cùng. Vào thời điểm đó, “tiền kiếp” là đề tài không chính
thống và rất ít người làm thử nghiệm trong lĩnh vực này. Nó khơi gợi sự quan
tâm của bà ấy, nhưng phải được gác lại vì nhu cầu của cuộc sống gia đình đã
được ưu tiên hơn.
Vào năm 1970,
chồng bà ấy giải ngũ, vì là một cựu chiến binh tàn tật, và họ nghỉ hưu ở đồi
Arkansas. Sau đó, bà bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình và bắt đầu bán các bài
báo của mình cho nhiều tạp chí và tờ báo khác nhau. Khi các con của bà bắt đầu
cuộc sống riêng, niềm yêu thích của bà với thôi miên hồi quy và luân hồi đã được
đánh thức một lần nữa. Bà đã học nhiều phương pháp thôi miên khác nhau
và do đó, đã phát triển được kỹ thuật độc đáo của riêng bà, giúp bà có
được thông tin tiết lộ hiệu quả nhất từ các đối tượng được thôi miên của
mình. Từ năm 1979, bà đã thu hồi và lập danh mục những thông tin đã thu
thập được từ hàng trăm tình nguyện viên. Bà tự gọi mình là người theo chủ
nghĩa hồi quy và một nhà nghiên cứu tâm linh, người ghi chép lại những tri
thức đã bị “thất lạc”. Những Cuộc Đối Thoại với Nostradamus
(Conversations with Nostradamus) là bộ sách đầu tiên được xuất bản của
bà. Jesus và những người Essene (Jesus and the Essenes) đã được xuất
bản bởi Gateway Books ở Anh. Bà ấy đã viết tám quyển sách khác (sẽ
xuất bản) về những trường hợp thú vị nhất của bà ấy. Dolores Cannon
có bốn người con và mười hai đứa cháu, những người yêu cầu bà phải cân bằng ổn
thỏa giữa gia đình, là thế giới “thực” và công việc, là thế giới “vô
hình” của bà. Nếu bạn muốn trao đổi với Dolores Cannon về công việc của bà ấy,
bạn có thể viết thư cho bà ấy theo địa chỉ sau đây. Vui lòng gửi kèm theo một
phong bì có dán tem ghi rõ địa chỉ để bà ấy trả lời.
Dolores Cannon,
P.O. Box 754
Huntsville, AR
72740-0754
Những quyển
sách được viết bởi Dolores Cannon
Những Cuộc
Đối Thoại với Nostradamus, Tập 1
Những Cuộc
Đối Thoại với Nostradamus, Tập 2
Những Cuộc
Đối Thoại với Nostradamus, Tập 3
Giữa Cái Chết
và Sự Sống
Jesus và những
người Essene
Những Người
Trông Nom Trái Đất
Một Linh Hồn
Nhớ Hiroshima
Truyền thuyết
về sự sụp đổ của vì Sao
Họ đã bước đi
cùng với Jesus
Di sản từ
những vì Sao
Bộ sách Những
Cuộc Đối Thoại với Nostradamus có sẵn ở dạng rút gọn bằng băng ghi
âm cassette. Để biết thêm thông tin chi tiết về bất kỳ tiêu đề sách
nào ở phía trên, hãy viết thư tới:
NXB OZARK
MOUNTAIN
P.O. Box 754
Huntsville, AR
72 74o-o754
Các yêu cầu
bán sỉ được hoan nghênh.
Thời Đại Mới
/ Lời Tiên Tri
Điều không thể
đã xảy ra
Thông qua cơ
hội liên lạc bằng hình thức thôi miên mà khả năng xảy ra bằng một
phần một triệu này, Nostradamus đã vượt qua thời gian để đến với
thời đại của chúng ta, nhằm tiết lộ những sự kiện mà ông ấy đã
nhìn thấy trước, đang nhanh chóng tiến gần đến với nhân loại. Bản
thân bậc thầy giải thích những câu đố mà ông đã cẩn thận che giấu
bằng mật mã, trong những bài thơ bốn câu hay là những lời tiên tri
nổi tiếng của ông. Bằng cách nói chuyện từ thời của ông ấy đến
thời của chúng ta, ông ấy cảnh báo chúng ta, để chúng ta có thể sử
dụng ý nguyện tự do của mình để giúp thay đổi tương lai. Ông ấy đã
nói rằng, “Nếu tôi cho các người thấy những điều kinh khủng nhất mà
con người có thể làm đối với chính bản thân mình, các người sẽ làm
gì đó để thay đổi nó chứ?”
“Dolores Cannon
đã thể hiện vai trò của mình một cách đáng ngưỡng mộ khi là người ghi lại những
lời giải thích của Nostradamus về những lời tiên tri của chính ông. Cô ấy đã
viết những tường thuật đáng kinh ngạc về các trải nghiệm của mình với
Nostradamus, với phong cách thực tế và báo chí tạo thêm cảm giác đáng tin cậy
cho những bản ghi chép. Cô ấy cũng đã thực hiện việc nghiên cứu kỹ lưỡng để
chứng minh rằng hầu hết các thông tin nhận được từ Nostradamus.” – Nhận
xét của một người Bạn
“Nostradamus, cũng như tôi, tin vào lý
thuyết về tương lai tương đối, về kết nối trên dòng thời gian với
nhiều ngã rẽ phân nhánh về mọi hướng. Ông ấy tin rằng nếu nhân loại
có tri thức, họ có thể thấy được mình đang hướng đến dòng thời gian
nào trong tương lai và có thể đảo nó đi trước khi quá muộn.” – Dolores
Cannon
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.