Teal Swan Transcripts 246
Vì sao tình yêu hóa thành hận thù
19-09-2016
Xin chào mọi người.
Chắc hẳn bạn đã
từng nghe những câu nói quen thuộc như: "Giữa yêu và ghét chỉ cách nhau một
ranh giới mỏng manh", "Kẻ ghét bạn thật ra là những người yêu bạn
nhưng đang rối loạn", hay "Một mối quan hệ là sự cân bằng giữa yêu và
ghét."
Người ta cũng
hay nói: "Đối lập với tình yêu không phải là hận thù, mà là sự thờ
ơ." Và còn vô số câu tương tự như thế.
Không có gì là
bí mật khi những người từng yêu thương ta nhất lại đôi khi trở thành những kẻ
thù ghét ta sâu sắc nhất. Ở mức cực đoan, hãy nhìn vào những tội ác vì đam mê,
một người chồng từng yêu vợ hết lòng lại giết cô ấy khi phát hiện cô ngoại
tình.
Một người vợ từng
thể hiện tình yêu với chồng lại làm mọi cách để hủy hoại danh tiếng của anh ta
nơi công chúng. Các tòa án ly hôn trên khắp thế giới mỗi ngày đều chật kín những
người từng yêu nhau, giờ lại căm ghét nhau một cách mãnh liệt.
Xét về mặt tần số
rung động, nỗi sợ mới thật sự là đối lập với tình yêu. Nỗi sợ tạo ra sự chia
tách và co cụm trong bản thể. Còn nếu nhìn vào năng lượng của sự thù ghét, nó nằm
đâu đó ở giữa các tần số.
Hận thù là đối lập
với nhận thức tích cực. Đó là cách ta nhìn nhận tiêu cực về một điều gì đó. Về
bản chất, hận thù bắt nguồn từ việc ta cảm thấy bị tổn thương và xem điều đã
gây tổn thương đó là mối đe dọa đối với mình. Bạn không thể xem điều gì đó là mối
đe dọa mà lại không xem nó là khác biệt với mình.
Đó là lý do vì
sao khi một người cảm thấy chính bản thân mình là mối đe dọa với chính mình, họ
lập tức cảm nhận một sự chia tách nội tâm, như thể có một phần khác của họ, hay
một "con quỷ bên trong", đang chống lại họ.
Cũng vì vậy mà
khi ta nói mình vừa yêu vừa ghét ai đó, thực chất ta không thể làm điều đó cùng
lúc. Điều ta làm là chia tách họ thành những khía cạnh khác nhau, để có thể
ghét một phần của họ và yêu một phần khác, như thể đang nói về hai người khác
nhau cùng mang một cái tên.
Chúng ta học về
tình yêu từ những trải nghiệm đầu đời. Không chính xác khi nói rằng ai đó khi
sinh con ra thì ngay lập tức yêu con mình. Đó chỉ là giả định của chúng ta.
Chúng ta thích nói điều đó. Chúng ta truyền bá niềm tin ấy rộng khắp xã hội.
Chúng ta nói: "Ôi, tất nhiên họ yêu con rồi. Đó là con của họ mà."
Nhưng điều đó không đúng.
Sự thật là, ngay
khi có một đứa trẻ, phần lớn chúng ta, dù có một số ngoại lệ, sẽ cảm thấy gắn
bó với đứa trẻ đó. Ta cảm thấy sự gắn bó về mặt tinh thần, cảm xúc và thậm chí
là thể chất. Nhưng với những ai đã đi trên hành trình tâm linh đủ lâu, bạn sẽ
biết rõ sự khác biệt giữa gắn bó – vốn là sự đồng nhất hóa – và tình yêu.
Vì xã hội hoàn
toàn mù mờ về khái niệm gắn bó và sự khác biệt giữa gắn bó và yêu thương, xã hội
luôn nói rằng những bậc cha mẹ yêu con mình nhiều nhất thực ra là những người gắn
bó nhất với con mình. Và thường thì những người gắn bó và đồng nhất hóa nhiều
nhất với con cái lại chính là những người thiếu tình yêu vô điều kiện nhất dành
cho chúng.
Với những bậc
cha mẹ như vậy, đứa trẻ chẳng khác gì một phần mở rộng của bản thân họ. Chúng
được yêu thương dựa trên điều kiện là phải tuân theo ranh giới, mong muốn, nhu
cầu, sở thích, sự ghét bỏ và giá trị của cha mẹ. Đó không phải là tình yêu, mà
là sự đồng nhất hóa. Cha mẹ đồng nhất hóa với con mình đến mức sẵn sàng làm mọi
thứ vì con. Chúng ta nhìn vào và nói: "Ôi, đúng là một bậc cha mẹ tận tâm
và tuyệt vời."
Liệu đứa trẻ đó
có thật sự may mắn không? Câu trả lời là không. Dưới danh nghĩa tình yêu, đứa
trẻ đó hoặc sẽ trở thành sự phản chiếu của cha mẹ để tiếp tục được yêu, hoặc sẽ
bị từ chối.
Chúng ta cần ngừng
gọi mọi thứ là tình yêu khi chúng không thực sự là tình yêu. Có rất nhiều lý do
để có con. Nhiều lý do trong số đó có thể là có ý thức, nhưng cũng rất nhiều lý
do là tiềm thức. Và điều mà chúng ta không muốn thừa nhận, đó là rất nhiều người
trong chúng ta, ở mức tiềm thức (nếu không muốn nói là ý thức), đã có con vì điều
đó làm tăng giá trị bản thân chúng ta. Chúng ta sinh con vì điều gì đó mà chúng
làm cho ta, vì điều gì đó chúng mang lại cho ta.
Nếu ta là kiểu
cha mẹ như vậy, thì chừng nào đứa con còn làm hoặc nói những điều khiến ta cảm
thấy được công nhận, tức là tiếp tục nuôi dưỡng lòng tự trọng của ta, thì ta sẽ
cảm thấy yêu thương chúng. Nhưng ngay khi đứa trẻ bắt đầu làm hoặc nói những điều
làm ta cảm thấy mất giá trị, tức là lấy đi lòng tự trọng của ta, thì ta ngay lập
tức cảm thấy chính con mình là mối đe dọa.
Ta sẽ cảm thấy
như thể con mình đang phản bội và từ bỏ sự gắn kết từng có với ta. Ta cảm thấy
tách biệt khỏi con và bắt đầu trải nghiệm cảm giác thù ghét chính con mình.
Nhưng ta đã biết rõ rằng, việc cảm thấy thù ghét con mình là không thể chấp nhận
được. Vì vậy, dù ta có cảm xúc đó, ta sẽ phủ nhận, phớt lờ, kìm nén, chối bỏ
nó. Ta tự thuyết phục bản thân rằng mình không hề cảm thấy như vậy, dù thực chất
là có.
Điều này đặc biệt
phổ biến trong các giai đoạn phát triển cá nhân lành mạnh của trẻ, khi chúng bắt
đầu hình thành ranh giới riêng, ví dụ như ở tuổi chập chững biết đi và tuổi vị
thành niên.
Đây là vấn đề lớn,
bởi vì đứa trẻ sẽ hoàn toàn không hiểu tại sao chúng đột nhiên không còn được
cha mẹ yêu thương nữa. Chúng không hiểu vì sao mình bỗng dưng bị rơi khỏi ân huệ,
tại sao trước kia có yêu thương, có sự kết nối, có sự gắn bó, mà giờ thì… biến
mất. Bỗng nhiên, cha mẹ trở thành kẻ đối đầu của chúng.
Sự rối loạn này
càng trở nên nghiêm trọng hơn khi những người làm cha mẹ, nếu bị đồng nhất hóa
như vậy với con cái, không chịu thừa nhận điều đang thật sự xảy ra, không thừa
nhận rằng họ đang cảm thấy thù ghét con vào khoảnh khắc đó. Họ phủ nhận điều đó
và vẫn nói những câu như: "Cha/Mẹ yêu con", hoặc "Cha/Mẹ yêu con
vô điều kiện", hoặc "Tất nhiên cha/mẹ yêu con mà".
Vậy nên khi đứa
trẻ nghe những lời như thế, nhưng lại cảm nhận và trải nghiệm hoàn toàn ngược lại,
thì chúng đương nhiên rơi vào một vòng xoáy rối loạn và hoang mang tột độ. Làm
sao mà mẹ hay cha có thể nói yêu con, trong khi con lại cảm thấy năng lượng lạnh
lùng ấy, hoặc thấy những hành động và nghe những lời nói rất tổn thương từ họ?
Sự thật là: cha
mẹ đã thực sự quay lưng với con mình. Không chỉ quay lưng mà còn phủ nhận rằng
mình đã làm điều đó. Thậm chí, họ còn đổ lỗi cho đứa trẻ về sự phản bội ấy. Họ
khiến đứa trẻ trở thành người phải chịu trách nhiệm cho việc cha mẹ rút lui khỏi
mối quan hệ và biến thành kẻ đối đầu.
Và đây là phần tồi
tệ hơn: đứa trẻ không có cách nào khác để lý giải điều vừa xảy ra trong mối
quan hệ giữa mình và cha mẹ, ngoài việc giả định rằng cha mẹ phải đúng.
Chúng nghĩ:
"Chắc chắn có gì đó sai ở mình."
Hãy nghĩ về lựa
chọn còn lại: bạn không thể sống sót trong một môi trường nơi sinh mạng bạn phụ
thuộc vào một người mà thực chất là đối đầu của bạn, một người không thật sự
yêu bạn.
Bạn buộc phải tạo
ra một cảm giác kiểm soát nào đó, và bạn làm điều đó bằng cách nhận trách nhiệm:
"Là do mình sai", hoặc "Là vì mình xấu", và miễn là bạn tin
điều đó, thì bạn cũng tin rằng nếu mình sống tốt hơn, đúng hơn, hoàn thiện hơn,
thì cuối cùng giữa mình và cha mẹ sẽ chỉ còn lại tình yêu.
Và thế là sự xấu
hổ trở thành vết hằn trong bản thể đứa trẻ ấy. Nó mang theo vết hằn ấy đến khi
trưởng thành.
Đứa trẻ kết luận
như vậy, vì đối mặt với sự thật rằng cha mẹ chưa bao giờ thực sự yêu thương
mình, mà chỉ yêu điều gì đó mình làm được cho họ - là điều quá đau đớn để chấp
nhận.
Và thế là, hận
thù và tình yêu trở nên gắn bó một cách sâu sắc trong tiềm thức của chúng ta.
Ngày nay trong
ngành tâm lý học, người ta gọi hiện tượng này là “gắn bó rối loạn”
(disorganized attachment). Nhưng vấn đề là các nhà tâm lý học cho rằng gắn bó rối
loạn là hiện tượng vô cùng hiếm gặp, chỉ giới hạn ở những người có cha mẹ mang
tính đối kháng đến mức khủng bố tinh thần con cái của chính mình. Nhưng tôi muốn
thách thức quan điểm đó.
Tôi cho rằng tồn
tại một phổ rất rộng của sự đối kháng giữa cha mẹ và con cái, và thực tế là có rất
nhiều người đang sống trên hành tinh này ngày nay đang chịu đựng một dạng của gắn
bó rối loạn, nhiều hơn rất nhiều so với những gì chúng ta từng nghĩ đến.
Chính vì điều đó
mà ta thấy nhiều sự đan xen giữa yêu và ghét trong các mối quan hệ của mình.
Khi cha mẹ sinh ra chúng ta để củng cố cảm nhận về bản thân của họ theo một
cách nào đó, thì ta không hề được trải nghiệm tình yêu thực sự mà ta đang tìm
kiếm. Ta chỉ được nhận một loại tình yêu hoàn toàn phụ thuộc vào việc ta có
giúp nâng cao lòng tự trọng của họ hay không.
Và những ai thất
bại trong việc đáp ứng điều đó với cha mẹ mình, thì sớm muộn gì cũng sẽ cảm thấy
bị cô lập, và mắc kẹt mãi trong vết hằn của sự xấu hổ.
Dù tình yêu là một
trải nghiệm tự nhiên chảy qua mọi sinh mệnh, thì cách ta học cách yêu, hay thậm
chí là có được phép thể hiện tình yêu hay không, lại được định hình qua mối
tương tác đầu đời với những người đầu tiên mà ta lệ thuộc để tồn tại trong kiếp
sống này.
Nếu “hương vị”
tình yêu đầu tiên của ta gắn liền với điều kiện rằng ta phải nâng đỡ cảm nhận về
bản thân của ai đó khác, thì ta sẽ lặp lại mô thức đó. Ta sẽ khiến tình yêu của
mình trở nên có điều kiện, rằng ai đó phải làm điều gì đó giúp ta cảm thấy mình
có giá trị. Và đồng thời, ta cũng sẽ hút về những người bạn hoặc bạn đời chỉ
yêu thương ta khi ta củng cố lòng tự trọng của họ.
Đây là công thức
hoàn hảo để tình yêu biến thành hận thù. Chỉ cần ai đó trong đời ta không còn
giúp ta cảm thấy mình có giá trị nữa, ta sẽ ghét họ. Và ngược lại, khi ta không
còn giúp họ cảm thấy mình có giá trị, họ sẽ ghét ta.
Giờ ta cần nói về
tình yêu có điều kiện và vô điều kiện.
Ở trạng thái tiến
hóa hiện tại, tình yêu vô điều kiện là một khái niệm trừu tượng, thứ mà ta chỉ
đang cố hiểu mà thôi. Như tôi đã nói, trên bình diện rung động, yêu một ai đó
là tiếp nhận họ như chính bản thân mình, là trải nghiệm sự hợp nhất trong hình
hài con người, và điều đó được đạt được qua sự tập trung tích cực và lòng biết
ơn hướng về đối tượng đó.
Rõ ràng, tình
yêu vô điều kiện chính là trạng thái yêu thương không phụ thuộc vào hành vi,
suy nghĩ, lời nói hay việc làm của ai đó.
Ngược lại, tình
yêu có điều kiện nghĩa là người ta chỉ có thể cảm thấy kết nối và đồng nhất với
người khác nếu người đó đáp ứng một điều kiện nào đó, như là khiến tôi cảm thấy
tốt về bản thân, bảo vệ tôi, hay thích tôi chẳng hạn.
Không phải tôi nói
rằng không tồn tại người có thể yêu vô điều kiện, mà là cá nhân tôi chưa từng gặp
ai thực sự làm được điều đó trong đời sống thực tế.
Rất nhiều người
trong giới tâm linh, vì đồng nhất hóa với sự “cao cả” của khái niệm yêu vô điều
kiện, nên thường tuyên bố rằng mình đang yêu vô điều kiện, và khuyên người khác
cũng phải học cách yêu như vậy. Nhưng họ bỏ qua một thực tế rằng đa phần con
người hiện nay chưa đủ chữa lành để thực hành được tình yêu vô điều kiện.
Nói cách khác,
trong cộng đồng tâm linh, khi hầu hết mọi người nói về “tình yêu vô điều kiện”,
thực chất là họ đang phủ nhận hiện thực nội tâm của mình. Họ không chịu thừa nhận
rằng tình yêu của họ thực ra là có điều kiện.
Ta có thể giả vờ
yêu vô điều kiện ở bề ngoài, và thường cố làm như vậy, nhưng ta không thể giả vờ
điều đó bên trong.
Giả sử bạn không
phải kiểu người có con chỉ vì muốn nâng cao lòng tự trọng của bản thân, thì phần
lớn những gì ta thấy là: gần như cách duy nhất mà con người ngày nay có thể chạm
được vào trải nghiệm tình yêu vô điều kiện, là khi họ yêu chính con của mình.
Nhưng, khác xa với
điều mà xã hội cố thuyết phục bạn tin rằng có thể, thì việc có con không hề là
một bằng chứng cho tình yêu vô điều kiện đang hiện diện. Điều đó không phải là
đảm bảo, và trên thực tế, nó còn hiếm có.
Một mối quan hệ
có điều kiện là mối quan hệ giao dịch. Và thực tế mà chúng ta cần thức tỉnh là:
99% (nếu không muốn nói là hơn) các mối quan hệ trên thế giới hiện nay đều là
giao dịch. Điều này đúng với tất cả các loại quan hệ: giữa hai người yêu nhau,
hai người bạn, cha mẹ và con cái, anh chị em, hay thậm chí là mối quan hệ với
chính bản thân mình.
Một mối quan hệ
yêu – ghét, thực chất, chỉ là một mối quan hệ có điều kiện. Đó là mối quan hệ
mà tình yêu lên xuống thất thường tùy theo các điều kiện trong mối quan hệ đó
thay đổi ra sao. Nếu các điều kiện được đáp ứng, tình yêu sẽ tồn tại. Nếu
không, tình yêu biến mất. Vậy là yêu – ghét song hành.
Tuy nhiên, khi
ta ở trong trạng thái đó, dù đang ghét ai đó, ta vẫn có khao khát mãnh liệt muốn
lấy lại cảm giác yêu thương ngày xưa. Và vì vậy, đây là trạng thái mâu thuẫn cảm
xúc cực độ cho cả hai người trong mối quan hệ.
Vậy tóm lại, tôi
sẽ cô đọng toàn bộ nội dung video này thành một sơ đồ dòng chảy đơn giản, cách
mà tình yêu hóa thành hận thù:
- Nếu ta chỉ có
thể yêu có điều kiện, thì mức độ yêu thương mãnh liệt (cảm nhận tích cực và sự
hợp nhất với người đó) càng cao, thì nỗi đau khi đánh mất cảm giác hợp nhất đó càng
lớn.
- Nỗi đau càng lớn,
ta càng cảm thấy bị tổn thương sâu sắc. Ta càng cảm thấy mình bị tổn thương,
thì ta càng xem mình là nạn nhân, và xem người kia là mối đe dọa.
- Ta càng xem họ
là đe dọa, và mình là nạn nhân, thì ta càng hận họ sâu sắc hơn.
Đó là lý do vì
sao những người từng yêu thương ta nhất, những người từng là “fan” cuồng nhiệt
của ta, lại có thể trở thành kẻ thù lớn nhất của ta.
Chúng ta đang ở thời
điểm mà ta chỉ mới thực hành tình yêu có điều kiện, và phần lớn chúng ta vẫn chưa
chữa lành đủ để có thể thực hành tình yêu vô điều kiện, ta chỉ đang cố giả vờ
mà thôi.
Nhưng chúng ta
đã bước vào thời kỳ mà con người đang bắt đầu khao khát được yêu vô điều kiện,
và cũng mong muốn có khả năng yêu người khác một cách vô điều kiện.
Nhưng điều đó phải
bắt đầu bằng việc ta thành thật với chính mình, rằng trái ngược với điều ta muốn
tin về bản thân, thì tình yêu của ta hiện tại vẫn là có điều kiện.
Và từ điểm đó,
hãy tự hỏi: Tình yêu của tôi hiện đang đặt điều kiện lên điều gì?
Chúc bạn một tuần
mới tốt lành.
Link gốc của bài
viết
https://www.youtube.com/watch?v=ExT-uyZRaj0
https://www.facebook.com/Go-With-The-Earth-110516891516479/
DANH SÁCH TẤT CẢ CÁC BÀI VIẾT CỦA TRANG
https://gowiththeearth.blogspot.com/2021/10/tat-ca-sach-co-tai-blogs.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.